Bản tin pháp lý – Tháng 1, 2015

Những điểm mới đáng chú ý trong luật đầu tư 2014

Hà Thị Hải – Luật sư cộng sự
Nguyễn Thị Thu Trang – Luật sư
Phan Văn Huy -Trợ lý pháp lý

Ngày 26/11/2014 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư mới với đa số phiếu tán thành. Luật đầu tư mới được kỳ vọng sẽ hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi,

minh bạch để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế theo định hướng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020, đồng thời góp phần thực hiện chủ trương tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu đầu tư, doanh nghiệp nói riêng. Dưới đây là một số điểm đáng chú ‎ý trong Luật đầu tư 2014.

Thay đổi căn bản về chính sách đầu tư

Luật đầu tư 2014 đã thay đổi căn bản chính sách đầu tư theo hướng khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được đầu tư trong tất cả các lĩnh vực và ngành, nghề mà Luật đầu tư không cấm. Theo đó, Luật đầu tư mới quy định cụ thể 6 ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Quy định cụ thể này tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham chiếu khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thay vì phải tham chiếu quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác như hiện nay.

Khái niệm “Nhà đầu tư” và cách phân loại mới

Luật Đầu tư mới phân loại khái niệm “Nhà đầu tư” thành ba nhóm: Nhà đầu tư trong nước, Nhà đầu tư nước ngoài và Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam” và “Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông”. Tuy nhiên trường hợp nhà đầu tư là cá nhân có hai hoặc nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Việt Nam, thì chưa rõ sẽ được phân vào nhóm nào.
Luật Đầu tư 2014 thay đổi khái niệm về Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo khái niệm này, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Luật không quy định giới hạn tỉ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế để được coi là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Liên quan đến chính sách điều kiện đầu tư kinh doanh áp dụng đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, hiện tại doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài từ 49% vốn điều lệ trở xuống được áp dụng điều kiện đầu tư kinh doanh như nhà đầu tư trong nước, trên 49% vốn điều lệ được áp dụng điều kiện đầu tư kinh doanh như nhà đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư mới vẫn áp dụng chính sách tương tự khi quy định các tổ chức kinh tế (thành lập tại Việt Nam) có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục giống như nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế khác. Không chỉ vậy, Luật đầu tư mới còn áp dụng điều kiện đầu tư như nhà đầu tư nước ngoài đối với cả (i) tổ chức kinh tế có 51% vốn điều lệ trở lên được sở hữu bởi một tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên, và (ii) tổ chức kinh tế có 51% vốn điều lệ trở lên được sở hữu bởi một tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên và nhà đầu tư nước ngoài.

Thay đổi về Hình thức đầu tư

Nếu như Luật Đầu tư hiện tại phân biệt hai hình thức đầu tư cơ bản là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp theo tiêu chí nhà đầu tư có hoặc không tham gia quản lý hoạt động đầu tư, thì Luật Đầu tư mới đã hoàn toàn bỏ hai khái niệm này. Trên thực tế, áp dụng pháp Luật Đầu tư 2005 cho thấy việc phân biệt ranh giới giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp không đơn giản và khó có thể phân định rõ ràng mạch lạc nên gây ra nhiều khó khăn khi nhà đầu tư cũng như cơ quan có thẩm quyền xác định các thủ tục phải thực hiện theo từng loại hình đầu tư. Khắc phục tình trạng này, thay vì 7 hình thức đầu tư trực tiếp và 3 hình thức đầu tư gián tiếp như Luật Đầu tư hiện hành, Luật Đầu tư mới tóm gọn lại và chỉ còn 4 hình thức đầu tư: hình thức thành lập tổ chức kinh tế; Hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế; Hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) hoặc hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP).
Đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng, trên thực tế, các hợp đồng BOT, BTO, BT (theo quy định Luật đầu tư hiện tại) đều là các hình thức cụ thể của Hợp đồng PPP. Để hoàn thiện chính sách đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật đầu tư mới đã loại bỏ hình thức đầu tư theo hợp đồng BTO, BOT, BT và bổ sung hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Theo đó, nhà đầu tư ký kết Hợp đồng PPP với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.

Quy trình mới về thành lập tổ chức kinh tế, góp vốn mua cổ phần

Theo Luật Đầu tư hiện hành, Giấy chứng nhận đầu tư (“GCNĐT”) cấp cho nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời gian qua, việc thực hiện quy định nêu trên gặp nhiều vướng mắc do việc gộp chung hai loại giấy tờ khác nhau về bản chất pháp lý. Do đó, Luật Đầu tư mới đã bỏ quy định yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư tại Việt Nam phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo Luật đầu tư mới chỉ có các nội dung về dự án đầu tư mà không còn nội dung về đăng ký kinh doanh như hiện tại. Về quy trình, nhà đầu tư nước ngoài, sau khi có dự án và thực hiện xong thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, sẽ tiếp tục làm thủ tục đăng ký doanh nghiệp để thành lập doanh.

Cũng như vậy, hiện nay, thủ tục góp vốn, mua cổ phẩn của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam được thực hiện không thống nhất giữa các địa phương, còn tồn tại quan điểm khác nhau về sự cần thiết phải cấp GCNĐT đối với trường hợp này cũng như điều kiện, thủ tục xem xét điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam. Đối với một số tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần vừa phải thực hiện thủ tục thay đổi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, vừa phải xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư do có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần. Tại mỗi khâu thủ tục, cơ quan cấp phép đều thực hiện quy trình kiểm tra điều kiện đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí thực hiện cả quy trình thẩm tra xin ý kiến của các cơ quan liên quan, khiến xảy ra tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, mất nhiều thời gian cũng như công sức và chi phí của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Luật Đầu tư mới đã loại bỏ bất cập này bằng quy định mới về thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế, mà không phải thực hiện thủ tục xin cấp GCNĐKĐT. Kết quả của thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần là Sở Kế hoạch và Đầu tư (“Sở KHĐT”) ban hành một thông báo bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ để sau đó nhà đầu tư thực hiện thủ tục thay đổi cổ đông, thành viên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên quy định về thủ tục này vẫn chưa xác định rõ nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp với cơ quan đăng ký đầu tư trước hay phải hoàn thành việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong tổ chức kinh tế trước. Đây vốn là vấn đề gây nhiều tranh cãi từ trước đến nay, và tiềm ẩn nhiều rủi ro phát sinh tranh chấp giữa nhà đầu tư và tổ chức kinh tế hoặc bên chuyển nhượng, đặc biệt là trong trường hợp cơ quan đăng ký đầu tư từ chối cấp phép. Mặc dù vậy, đây được coi là bước tiến đáng kể thể hiện chủ trương tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát triển hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.

Điểm đáng chú ý liên quan đến thủ tục góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam theo Luật đầu tư mới là không phải tất cả các trường hợp góp vốn mua cổ phần đều phải thực hiện thủ tục đăng ký với Sở KHĐT mà chỉ các trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần trong tổ chức kinh tế hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài hoặc việc góp vốn, mua cổ phần dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có đa số vốn của nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế phải thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn mua cổ phần. Tuy nhiên, mặc dù Luật đầu tư mới quy định 267 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (được hiểu là áp dụng chung cho các nhà đầu tư), nhưng không quy định rõ những ngành nghề nào được coi là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Về thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (“GCNĐKĐT”)

Thứ nhất, Luật Đầu tư mới đã thu hẹp đáng kể diện các dự án phải thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT chỉ còn: Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế trong các trường hợp (a) có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh; hoặc (b) có tổ chức kinh tế quy định tại điểm (a) nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên; hoặc (c) có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm (a) nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên. Các trường hợp đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế chỉ phải thực hiện quy định về đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp mà không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư. Dự án của nhà đầu tư trong nước không còn bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký đầu tư nữa.
Điểm cải tiến quan trọng thứ hai của phần này là, trừ trường hợp dự án phải xin quyết định chủ trương đầu tư, đối với các dự án đầu tư khác thủ tục thẩm tra đầu tư đã bị bãi bỏ, chỉ còn thủ tục đăng ký đầu tư với thời hạn tối đa cấp GCNĐKĐT là 15 ngày. Thay đổi này nhằm giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà, không minh bạch, rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Đối với các dự án rơi vào diện phải có quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh thì phải thực hiện thủ tục phải xin quyết định chủ trương đầu tư trước khi thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư.

Bảo đảm đầu tư – Ưu đãi đầu tư

Những quy định về bảo đảm đầu tư theo Luật Đầu tư hiện hành được đánh giá về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam tại thời điểm ban hành Luật Đầu tư 2005. Luật đầu tư 2014 vẫn kế thừa được các bảo đảm này: Bảo đảm quyền sở hữu tài sản; Bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh; Bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư ra nước ngoài, Bảo lãnh của Chính phủ đối với một số dự án quan trọng; Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật. Trong trường hợp thay đổi pháp luật, nhà đầu tư sẽ được hưởng ưu đãi đầu tư cao hơn cho thời gian ưu đãi còn lại của dự án, trừ trường hợp thay đổi quy định của văn bản pháp luật vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, bảo vệ môi trường. Đối với trường hợp không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo trường hợp trên, nhà đầu tư sẽ được xem xét giải quyết hỗ trợ nếu có yêu cầu bằng văn bản trong thời hạn 3 năm khi văn bản pháp luật mới có hiệu lực.
Đối với ưu đãi đầu tư, Luật Đầu tư mới bổ sung 3 đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, gồm: Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp GCNĐKĐT hoặc quyết định chủ trương đầu tư; Dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên; Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ. Ngoài ra, Luật mới mở rộng các ngành, nghề thuộc diện ưu đãi đầu tư thành 13 ngành, nghề thay vì 8 ngành, nghề như hiện nay.

Nguyên tắc áp dụng pháp luật

Nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về đầu tư theo hướng phân định rõ mối quan hệ và nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư, các luật liên quan và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Luật đầu tư mới quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật trong trường hợp có xung đột. Theo đó, trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật đầu tư thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó để điều chỉnh. Đặc biệt, trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật đầu tư và luật khác về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư thì, thay vì quy định pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng theo quy định Luật đầu tư hiện hành, Luật đầu tư mới quy định ưu tiên áp dụng quy định của Luật đầu tư, trừ trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh theo quy định tại Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật dầu khí. Điểm mới này tạo sự rõ ràng, thống nhất và xuyên suốt trong hệ thống pháp luật, thể hiện tính chất của Luật đầu tư là khung văn bản pháp luật đi đầu trong hệ thống pháp luật về đầu tư.

Giải quyết tranh chấp

Với mục đích tạo dựng môi trường đầu tư an toàn, tin cậy và có sức hấp dẫn, cạnh tranh cao hơn, dự thảo Luật đầu tư mới tiếp tục quy định theo hướng đề cao tính tự do thỏa thuận của nhà đầu tư. Theo đó, đối với những tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế có đa số vốn nước ngoài, các bên có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp có tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua trọng tài Việt Nam hoặc tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng hoặc có quy định khác tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quy định này một lần nữa nhấn mạnh quyền thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và việc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Quy định mới về bảo đảm thực hiện dự án đầu tư

Thực chất đây là một quy định không mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam, do trước đó đã có một số tỉnh, thành phố ban hành quy định ký quỹ bảo đảm thực hiện đầu tư dự án có sử dụng đất trên địa bàn như Bắc Ninh, Lào Cai, Thái Nguyên… Luật đầu tư mới mạnh dạn đưa quy định này vào nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tăng cường trách nhiệm của nhà đầu tư. Theo đó, đối với những dự án đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, nhà đầu tư phải ký quỹ với mức ký quỹ từ 1% đến 3% vốn đầu tư của dự án để bảo đảm thực hiện dự án. Việc ký quỹ này thể hiện cam kết của nhà đầu tư đối với việc thực hiện dự án, hạn chế tình trạng nhà đầu tư sau khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất rồi vì lý do nào đó không thực hiện hoặc thực hiện dự án không đúng tiến độ cam kết, để trống đất không sử dụng trong thời gian dài. Khoản ký quỹ này được hoàn trả cho nhà đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án đầu tư, trừ trường hợp không được hoàn trả.

Quy định mới về thẩm quyền cấp phép

Khác biệt hoàn toàn so với Luật đầu tư 2005, Luật đầu tư mới đã bỏ thẩm quyền cấp GCNĐT của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà trao quyền này cho Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế đối với dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế đó và Sở KHĐT đối với các dự án còn lại.
Ngoài ra, Luật đầu tư mới còn có quy định mới đối với dự án đầu tư thực hiện trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc dự án đầu tư thực hiện ở trong và ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Nếu như trước nay GCNĐT được cấp theo từng địa bàn và nếu một dự án được thực hiện trên nhiều tỉnh khác nhau thì doanh nghiệp phải thực hiện việc xin cấp các GCNĐT tại các tỉnh đó, thì dự thảo Luật đầu tư mới cho phép hiểu doanh nghiệp chỉ cần xin cấp một GCNĐKĐT tại Sở KHĐT nơi nhà đầu tư đặt hoặc dự kiến đặt trụ sở chính hoặc văn phòng điều hành để thực hiện dự án đầu tư. Đây có thể là một bước tiến mới nhằm giảm bớt thủ tục hành chính, thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên về mặt quản lý nhà nước, nếu như hiện tại Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh thì với quy định của Luật đầu tư mới, trong trường hợp dự án đầu tư được Sở KHĐT nơi đặt trụ sở chính cấp GCNĐKĐT được thực hiện tại nhiều địa bàn tỉnh thành phố khác, thẩm quyền quản lý nhà nước đối với phần dự án tại địa bàn tỉnh thành phố khác sẽ thuộc về cơ quan nào và trách nhiệm của nhà đầu tư với cơ quan chính quyền tại các địa bàn tỉnh thành phố đó đến đâu là một vấn đề quan trọng cần được làm rõ.

Điều khoản chuyển tiếp

Nhằm duy trì ổn định hoạt động của dự án đầu tư/doanh nghiệp đã hoạt động trước thời điểm Luật đầu tư mới có hiệu lực, các dự án đầu tư/doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Đầu tư 2005 và Luật Đầu tư nước ngoài được tiếp tục hoạt động theo GCNĐT/Giấy phép đầu tư đã cấp. Trường hợp có nhu cầu, nhà đầu tư thực hiện thủ tục đổi GCNĐKĐT theo quy định của Luật này tại Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư.

Luật đầu tư mới cùng với Luật Doanh nghiệp mới đã được Quốc hội thông qua dự kiến sẽ có hiệu lực thi hành vào cùng một thời điểm ngày 01 tháng 07 năm 2015. Về cơ bản, Luật đầu tư mới đã khắc phục nhiều khiếm khuyết của Luật đầu tư 2005 và được kỳ vọng sẽ tạo ra một khung pháp luật về đầu tư áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo môi trường đầu tư an toàn, có sức hấp dẫn, cạnh tranh cao và thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.