BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 09, 2022 – NGHỊ ĐỊNH 25/2022: MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI VỀ DỊCH VỤ BƯU CHÍNH TẠI VIỆT NAM

Phát hành 09/ 2022

Hà Hải
Luật sư Thành viên

Phan Thị Minh 
Luật sư Cộng sự

Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2011/NĐ-CP ngày 17/06/2011 quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính (“Nghị định 47”), tốc độ phát triển của ngành dịch vụ bưu chính tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, doanh thu dịch vụ bưu chính tăng từ khoảng 4.135 tỷ đồng năm 2010 lên tới 36.950 tỷ đồng năm 2020, đóng góp vào khoảng 0,8% vào GDP quốc gia. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, Nghị định 47 đã bộc lộ một số nội dung không còn phù hợp với thực tế và chưa theo kịp xu thế phát triển của công nghệ hiện đại. Do vậy, ngày 12/04/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 47 (“Nghị định 25”) nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế nói trên. Nghị định 25 có hiệu lực vào ngày 01/06/2022.  Dưới đây là một số điểm mới đáng chú ý của Nghị định 25:

1. Bãi bỏ quy định về thẩm tra dự án

Trước đây, Nghị định 47 quy định “Dự án có vốn đầu tư nước ngoài có mức vốn dưới 15 tỷ đồng Việt Nam phải được thẩm tra nhưng không phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư” và “Dự án có vốn đầu tư nước ngoài có mức vốn từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên phải được thẩm tra trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư”. Tuy nhiên, hiện nay quy định này không còn phù hợp với Luật đầu tư 2020 và văn bản hướng dẫn thi hành. Mặt khác, quy định này còn mang tính chất phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh dịch vụ bưu chính tại Việt Nam. Do đó, Nghị định 25 đã bãi bỏ quy định này.

2. Bãi bỏ quy định về điều kiện tài chính của doanh nghiệp bưu chính

Nghị định 25 chính thức bãi bỏ quy định doanh nghiệp phải có mức vốn tối thiểu là 02 tỷ đồng Việt Nam đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính trong phạm vi nội tỉnh, liên tỉnh và mức vốn tối thiểu là 05 tỷ đồng Việt Nam đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế do quy định này không có hiệu quả về quản lý nhà nước và tạo rào cản gia nhập thị trường đối với doanh nghiệp.

3. Bổ sung quy định về thông báo, công khai giá cước dịch vụ bưu chính

Việc thông báo giá cước dịch vụ bưu chính không được quy định tại Nghị định 47 mà được quy định tại Điều 5 Thông tư 02/2012/TT-BTTTT ngày 15 tháng 03 năm 2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính. Theo quy định này, doanh nghiệp phải thông báo có cơ quan cấp phép bưu chính khi có thay đổi về giá cước dịch vụ bưu chính đang áp dụng và giá cước dịch vụ mới phát sinh trong vòng 30 ngày kể từ ngày giá cước mới có hiệu lực.

Nghị định 25 đã nâng cấp, hoàn thiện quy định về thông báo giá cước dịch vụ bưu chính từ Thông tư 02/2012/TT-BTTTT, trong đó thời hạn doanh nghiệp phải thông báo thay đổi giá cước hoặc áp dụng giá cước phát sinh giảm xuống còn 05 ngày làm việc kể từ ngày giá cước có hiệu lực. Việc thông báo có thể thực hiện qua hệ thống thông tin trực tuyến. Cơ quan cấp phép bưu chính có quyền sử dụng thông tin giá cước mà doanh nghiệp, tổ chức đã thông báo vào mục đích phân tích, tổng hợp, dự báo biến động giá cả thị trường và xây dựng cơ sở dữ liệu và có trách nhiệm giám sát, kiểm tra, thanh tra nội dung thông báo giá cước dịch vụ bưu chính theo quy định pháp luật.

Ngoài nghĩa vụ thông báo nêu trên, doanh nghiệp còn có nghĩa vụ công khai giá cước dịch vụ bưu chính kể từ thời điểm doanh nghiệp cung ứng dịch vụ dưới một hoặc một số hình thức như niêm yết tại điểm phục vụ, thông báo bằng văn bản, đăng tải trên trang thông tin điện tử hoặc các hình thức khác để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của mọi tổ chức, cá nhân. Giá cước dịch vụ bưu chính được công khai phải thống nhất với giá cước mà doanh nghiệp, tổ chức đã thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.

4. Bãi bỏ yêu cầu phân tích tính khả thi và lợi ích kinh tế – xã hội trong hồ sơ đề nghj cấp giấy phép bưu chính

Trước đây, Nghị định 47 yêu cầu doanh nghiệp xin cấp giấy phép bưu chính phải phân tích tính khả thi và lợi ích kinh tế – xã hội của phương án kinh doanh thông qua các chỉ tiêu về sản lượng, doanh thu, chi phí, số lượng lao động, thuế nộp ngân sách nhà nước, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư trong 03 năm tới kể từ năm đề nghị cấp phép trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, xem xét từ thực tiễn thẩm định hồ sơ cấp phép thì Bộ Thông tin và Truyền thông thấy rằng nội dung này có rất ít giá trị trong việc chứng minh tính khả thi của phương án kinh doanh, gây khó khăn, tốn kém cho doanh nghiệp, đồng thời quy định này có tính chất can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, Nghị định 25 đã bãi bỏ để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi tham gia đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính.

5. Giá trị pháp lý của chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi điện tử

Trong bối cảnh dịch vụ bưu chính công nghệ ngày càng phổ biến trên thị trường, Nghị định 25 lần đầu tiên đã bổ sung quy định công nhận giá trị pháp lý của chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi điện tử giữa doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính và người gửi có giá trị pháp lý như hợp đồng ký kết bằng văn bản giữa các bên.

6. Hồ sơ cấp phép bưu chính phải được nộp trực tuyến

Nghị định 25 yêu cầu hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phải được nộp qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến thay vì nộp bản giấy trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu chính đến cơ quan có thẩm quyền về bưu chính như trước đây. Hồ sơ phải nộp cũng được giảm bớt còn 01 bộ thay vì 03 bộ hồ sơ bản giấy (01 bộ gốc và 02 bộ sao) như trước đây. Quy định sửa đổi này phù hợp với bối cảnh các cơ quan nhà nước đang ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ công trực tuyến và liên thông, đồng bộ với cải cách thể chế và thủ tục hành chính trên các lĩnh vực như hiện nay.

Việc thông báo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính liên quan đến nội dung yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ hoặc từ chối hồ sơ sẽ được thực hiện bằng văn bản qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến. Kết quả giải quyết thủ tục cấp giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính được trả trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính công ích.

7. Bổ sung quy định về khuyến mại trong cung ứng dịch vụ bưu chính

Nghị định 25 quy định rằng mức giảm giá cước tối đa đối với dịch vụ bưu chính được khuyến mại bằng hình thức giảm giá không được vượt quá 50% giá cước gần nhất đã công khai, thông báo theo quy định. Đây là quy định hoàn toàn mới của Nghị định 25. Quy định này nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng quy định của pháp luật chung về khuyến mại để thực hiện “khuyến mại, giảm giá” kéo dài đối với nhóm đối tượng khách hàng lớn, dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp bưu chính khác.

8. Sửa đổi, bổ sung các nội dung phải thông báo khi có thay đổi

Theo Nghị định 25, doanh nghiệp được cấp Giấy phép bưu chính và/hoặc văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phải thực hiện thủ tục thông báo khi có thay đổi các nội dung sau:

  • Người đại diện theo pháp luật
  • Số điện thoại liên lạc của người đại diện theo pháp luật
  • Vốn điều lệ của doanh nghiệp
  • Giá cước dịch vụ bưu chính
  • Chỉ tiêu chất lượng dịch vụ bưu chính
  • Mẫu hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính;
  • Các quy định về khiếu nại, bồi thường thiệt hại liên quan đến dịch vụ bưu chính do doanh nghiệp cung cấp

Theo đó, Nghị định 25 đã quy định rõ hơn các nội dung mà doanh nghiệp được xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phải thông báo tới cơ quan cấp phép khi có thay đổi. Ngoài ra, so với quy định trước đây, Nghị định 25 đã bỏ yêu cầu thực hiện thông báo khi có thay đổi về địa chỉ trụ sở chính và số điện thoại liên hệ của doanh nghiệp.

9. Trách nhiệm lưu giữ thông tin, tài liệu của doanh nghiệp bưu chính

Nghị định 25 bổ sung trách nhiệm lưu trữ tài liệu và thông tin của doanh nghiệp bưu chính như sau: (i) Lưu trữ hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính và chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi tổi thiểu 5 năm; (ii) Lưu trữ thông tin về người gửi, người nhận (họ và tên, địa chỉ và số điện thoại) và thông tin liên quan đến bưu gửi (nội dung gói, kiện hàng hóa, giấy tờ đi kèm khi vận chuyển theo quy định của pháp luật) tối thiểu 01 năm kể từ ngày được cung cấp.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2022 – NGHỊ ĐỊNH SỐ 15/2022/NĐ-CP NGÀY 28 THÁNG 01 NĂM 2022 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHÍNH SÁCH MIỄN, GIẢM THUẾ THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 43/2022/QH15 NGÀY 11 THÁNG 01 NĂM 2022 CỦA QUỐC HỘI

Phát hành 04/2022 

Nguyễn T. Thu Trang
Luật sư Cộng sự

Nguyễn T. Liên Liên
Trợ lý Pháp lý

Ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội (“Nghị quyết 43”), ngày 28 tháng 01 năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2022/NĐ-CP quy định chính sách miễn, giảm thuế (“Nghị định 15”) theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội để triển khai chính sách miễn, giảm thuế trong chính sách tài khóa của Quốc hội.

Gim Thuế Giá Tr Gia Tăng T Ngày 01 Tháng 2 Năm 2022 Đến Ngày 31 Tháng 12 Năm 2022

Để thuận tiện cho các tổ chức, cá nhân và cơ quan quản lý thuế, đảm bảo thống nhất áp dụng với các hệ thống pháp luật thuế chuyên ngành, Nghị định 15 quy định việc giảm thuế giá trị gia tăng (“GTGT”) đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% và đồng thời nêu rõ hàng hóa, dịch vụ không được áp dụng giảm thuế GTGT, cụ thể bao gồm:

  • Viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại và sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất;
  • Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt;
  • Công nghệ thông tin theo pháp luật về công nghệ thông tin.

Việc giảm thuế giá trị gia tăng được áp dụng thống nhất tại tất cả các công đoạn bao gồm nhập khẩu, sản xuất, gia công, kinh doanh thương mại, trừ trường hợp đối với mặt hàng than, việc giảm thuế GTGT chỉ được áp dụng đối với khâu khai thác bán ra. Theo đó, mức giảm thuế GTGT được xác định theo phương pháp tính thuế của cơ sở kinh doanh và được áp dụng từ ngày 01 tháng 2 năm 2022 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, cụ thể bao gồm:

  • Trường hợp áp dụng phương pháp khấu trừ, cơ sở kinh doanh được áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 8% đối với hàng hóa, dịch vụ;
  • Trường hợp áp dụng phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu, cơ sở kinh doanh được giảm 20% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ.

Th Tc Gim Thuế GTGT

Để được áp dụng mức thuế GTGT, cơ sở kinh doanh phải thực hiện lập hóa đơn riêng cho hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng. Trong trường hợp không lập hóa đơn riêng, việc giảm thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Nghị định 15 sẽ không được áp dụng. Đối với các trường hợp cơ sở kinh doanh đã lập hóa đơn và đã kê khai theo mức thuế suất hoặc mức tỷ lệ % để tính thuế GTGT chưa được giảm trừ, người bán và người mua phải lập biên bản ghi rõ sai sót, và người bán lập và giao hóa đơn điều chỉnh cho người mua để được áp dụng mức giảm thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh thực hiện kê khai các hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng theo Tờ khai “giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết 43” cùng với Tờ khai thuế giá trị gia tăng.

 Gim tr chi phí tài tr, ng h hot động phòng, chng dch Covid-19

Ngoài các khoản chi được quy định tại pháp luật thuế chuyên ngành, trong kỳ tính thuế thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2022, doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản chi ủng hộ, tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật thông qua một số đơn vị nhận ủng hộ, tài trợ theo quy định bao gồm Ủy bản Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, cơ sở y tế, cơ sở giáo dục, cơ quan báo chí và các cơ quan khác được liệt kê tại Nghị định 15.

Ngoài ra, Nghị định 15 đã quy định bổ sung trường hợp doanh nghiệp thực hiện việc ủng hộ, tài trợ thông qua việc chuyển khoản ủng hộ, tài trợ này về công ty mẹ. Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị thành viên, phải đảm bảo đáp ứng các điều kiện sau để được giảm trừ các chi phí ủng hộ, tài trợ khi xác định chi phí được trừ:

  • Công ty mẹ phải có biên bản/văn bản xác nhận khoản chi ủng hộ, tài trợ có chữ ký, đóng dấu của người đại diện doanh nghiệp đơn vị thành viên và công ty mẹ;
  • Doanh nghiệp có hóa đơn, chứng từ hợp pháp đối với khoản ủng hộ, tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật theo quy định của pháp luật;
  • Công ty mẹ có văn bản xác nhận về khoản ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp đơn vị thành viên; và
  • Công ty mẹ thực hiện việc ủng hộ, tài trợ thông qua đơn vị nhận ủng hộ, tài trợ được liệt kê tại Nghị định 15.

Đây là một quy định mới tại Nghị định 15 so với quy định tương ứng tại Nghị định 44/2021/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19 và được bổ sung trên cơ sở phát sinh các khoản chi ủng hộ, tài trợ từ các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam.

Nghị định 15 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 02 năm 2022.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2022 – Phiên tòa trực tuyến tại Việt Nam theo quy định mới: Từng bước tiếp cận hệ thống Tòa án điện tử

Phát hành 04/2022 

Nguyễn Đăng Việt
Luật sư thành viên

Nguyễn Ngọc Ly
Trợ lý Luật sư

1. Tổng quan

Đối mặt với vô số khó khăn và trì hoãn giữa bối cảnh dịch COVID-19 diễn ra, các tòa án trên toàn cầu đã và đang tối ưu hệ thống điện tử của mình để triển khai các tòa án trực tuyến. Sự đổi mới này là giải pháp thích hợp để cân bằng các chỉ thị y tế công cộng với nhu cầu duy trì pháp quyền, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã và đang áp dụng hàng loạt giải pháp công nghệ để phát triển hệ thống làm việc trực tuyến, giúp các thủ tục tại tòa án được vận hành thông suốt.

Trong vòng 02 năm trở lại đây, được coi là một yếu tố cấu thành nên nền tảng Tòa án điện tử, thuật ngữ “phiên tòa trực tuyến” đã dần được tiếp cận và đề cập đến ở Việt Nam như một giải pháp khả thi để bổ trợ cho các phiên tòa trực tiếp, nhất là khi đại dịch tiếp tục gây gián đoạn hoạt động tố tụng. Tại nhiều quốc gia, nhờ có phiên tòa ảo mà các bên đã không cần đến các phòng xử án thông thường vốn quen thuộc trước đây.

Liên quan đến vấn đề này, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 33/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 (“Nghị quyết 33”) quy định về tổ chức phiên tòa trực tuyến như một phương thức song hành với các phiên tòa trực tiếp sẵn có.

Đáng lưu ý là Thông tư liên tịch do Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư pháp ban hành ngày 15/12/2021 (Thông tư liên tịch 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP, “Thông tư liên tịch 05”) đưa ra hướng dẫn và quy trình tổ chức phiên tòa trực tuyến có hiệu lực từ ngày 01/02/2022.

Phiên tòa trực tuyến là phiên tòa được tổ chức bằng các thiết bị nghe nhìn, cho phép người tham gia không cần trực tiếp đến phòng xử án. Dưới góc độ pháp lý, phiên tòa trực tuyến được tổ chức tại phòng xử án, có sử dụng các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường mạng, cho phép bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại địa điểm ngoài phòng xử án do Tòa án quyết định nhưng vẫn bảo đảm trực tiếp theo dõi đầy đủ hình ảnh, âm thanh và tham gia các trình tự, thủ tục tố tụng của phiên tòa bằng lời nói, hành vi tố tụng liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm.[1]

 2. Các trường hợp và thẩm quyền tổ chức phiên tòa trực tuyến

Theo Nghị quyết 33/2021/QH15 (Điều 1.1), Tòa án Nhân dân được tổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án đáp ứng đủ 02 điều kiện sau đây:

  • Các vụ án hình sự, dân sự, hành chính có tình tiết, tính chất đơn giản;
  • Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án rõ ràng.

Tuy nhiên, các phiên tòa trực tuyến sẽ không được áp dụng cho:

  • Vụ án hình sự, dân sự, hành chính liên quan đến bí mật Nhà nước;
  • Vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự;
  • Vụ án hình sự về một trong các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật Hình sự.

3. Hướng dẫn chung về việc tổ chức phiên tòa trực tuyến

Việc tổ chức phiên tòa trực tuyến được thực hiện theo nguyên tắc chung về tổ chức xét xử các vụ án được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hành chính 2015. Bên cạnh đó, các cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án Nhân dân tổ chức xét xử trực tuyến là Nghị quyết 33 và Thông tư liên tịch 05 với một số điểm đáng chú ý như sau:

3.1 Nghĩa vụ của các cơ quan thẩm quyền.

Trong giai đoạn chuẩn bị phiên tòa trực tuyến Tòa án điện tử và quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án và các cơ quan hữu quan (bao gồm Viện kiểm sát, cơ sở giam giữ và trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước) phải phối hợp có hiệu quả để đảm bảo phiên tòa trực tuyến được tổ chức trong tuân thủ các quy định hiện hành.[2]

Tòa án, với tư cách chủ trì phiên tòa trực tuyến, phải đảm bảo đã có thông báo hợp lý tới tất cả các bên tham gia phiên tòa trực tuyến, từ đó các bên này sẽ có sắp xếp tổ chức kỹ thuật cần thiết để kiểm tra và kết nối nền tảng điện tử.

3.2 Yêu cầu về kỹ thuật và quy trình

Các phiên tòa trực tuyến sẽ được tổ chức bằng cách thiết lập 02 loại điểm cầu.

Điểm cầu trung tâm hoặc phòng xử án trực tuyến có thể đặt tại trụ sở Tòa án hoặc địa điểm do Tòa án lựa chọn, tổ chức theo quy định tại Thông tư 01/2017/TT-TANDTC với các thành phần bắt buộc tham gia (Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án).

Phòng xử án ảo này phải được trang bị đầy đủ các thiết bị phục vụ phiên tòa trực tuyến như hệ thống chiếu sáng, đường truyền và thiết bị mạng, hệ thống âm thanh và thiết bị hiển thị hình ảnh, dữ liệu và nguồn điện, v.v.

Đối với hầu hết các phiên tòa dân sự, hành chính hoặc hình sự, các điểm cầu thành phần chỉ cần đáp ứng các điều kiện cơ bản về không gian, chất lượng hình ảnh, âm thanh để đảm bảo phiên xét xử được truyền trực tuyến. Đối với phiên tòa hình sự có điểm cầu thành phần đặt tại nơi giam giữ thì còn phải đáp ứng  các quy định của Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2018 của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao quy định phòng xử án.

Những người tham gia không phải là Hội đồng xét xử sẽ tham gia thông qua tối đa 03 điểm cầu thành phần được Tòa án chấp nhận.

Ngoài các thủ tục thông thường theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Tố tụng Hành chính, phiên tòa trực tuyến cũng đồng thời phải đáp ứng các yêu cầu khác, [3]ví dụ: kiểm tra giấy tờ tùy thân của người tham gia phiên tòa; phổ biến một số thông tin về phiên tòa trực tuyến khi khai mạc bởi chủ tọa phiên tòa.

3.3.   Yêu cầu chung đối với người tham gia

Để tham dự một phiên tòa trực tuyến, người tham gia phải tuân thủ các quy định đáng chú ý như sau:

  • Luôn để bật camera và âm thanh micro;
  • Không tạo ra tạp âm gây ảnh hưởng mất tập trung;
  • Trang phục phù hợp khi tham dự phiên tòa qua thiết bị ghi hình;
  • Không đi lại hoặc rời đi trong thời gian xét xử trực tuyến trừ khi được chủ tọa phiên tòa cho phép;
  • Đảm bảo bảo mật và an toàn của phiên tòa, không chụp ảnh, ghi âm, phát tán tài liệu trên các phương tiện truyền thông, v.v.
  • Xuất trình giấy tờ tùy thân theo yêu cầu của tòa án.

4. Kết

Nền Công nghiệp 4.0 ở Việt Nam đang ở giai đoạn đầu nhưng được ứng dụng kịp thời vào các phiên tòa trực tuyến, sẽ có khả năng mang lại nhiều lợi ích thực sự cho các bên. Phiên tòa trực tuyến còn tiết kiệm thời gian và chi phí, và dễ dàng tiếp cận. Nếu triển khai tốt, Việt Nam có thể nâng cao năng lực của hệ thống toà án và đảm bảo quy trình tố tụng được giải quyết kịp thời tránh bì trì hoãn và tồn đọng.

[1] Điều 1.2 Nghị quyết 33/2021/QH15

[2] Chương II Thông tư liên tịch 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP

[3] Điều 13 Thông tư liên tịch 05

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 03, 2022 – Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản

Phát hành 03/2022 

Nguyễn Thu Huyền
Luật sư thành viên

Nguyễn Hoàng Quân
Trợ lý Pháp lý

Trong những năm gần đây, ngành nghề kinh doanh bất động sản luôn nằm trong danh sách các ngành có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất tại Việt Nam. Theo thống kê của Bảng xếp hạng PROFIT500 do Vietnam Report thực hiện cho giai đoạn 2017 – 2021[1], nhóm 7 ngành đạt tốc độ tăng trưởng kép (“CAGR[2]”) cao nhất và có đóng góp lớn cho sự tăng trưởng chung là: Ngành Thép (34,5%); Ngành Bán lẻ (17,5%); Ngành Tài chính (17,3%); Ngành Nông nghiệp (16,0%); Ngành Thực phẩm – Đồ uống (11,9%); Ngành Hóa chất (11,7%) và Ngành Bất động sản – Xây dựng (10,8%). Không những tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao, ngành kinh doanh bất động sản còn xuất hiện nhiều loại hình mới như officetel, condotel, resort villa hay shophouse cần có hành lang pháp lý để điều chỉnh.

Trước sự phát triển nhanh chóng của thị trường, ngày 06 tháng 01 năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản năm 2014 (“Nghị định 02”) để đáp ứng các yêu cầu mới về quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Nghị định 02 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 03 năm 2022 và thay thế Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản (“Nghị định 76”).[3] Dưới đây là các điểm mới đáng chú ý của Nghị định 02 này:

1. Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải công khai thông tin

Nghị định 02 quy định trách nhiệm công khai thông tin là một trong những điều kiện bắt buộc để tổ chức cá nhân được kinh doanh bất động sản, theo đó doanh nghiệp bất động sản, Ban Quản lý dự án bất động sản và sàn giao dịch bất động sản phải công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp, trụ sở Ban Quản lý dự án, và sàn giao dịch. Các thông tin cần công khai bao gồm: (i) thông tin về doanh nghiệp; (ii) thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh,; (iii) thông tin về thế chấp nhà, công trình xây dựng, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh; (iv) thông tin về số lượng, loại sản phẩm bất động sản được kinh doanh, đã bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê mua, và còn lại đang tiếp tục kinh doanh.[4]

Quy định nêu trên là quy định mới so với Nghị định 76, cụ thể hóa các quy định tại Điều 6 của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 về việc công khai thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh.  Quy định này nhằm minh bạch hóa thông tin trong hoạt động kinh doanh bất động sản và nếu được triển khai một cách hiệu quả trong thực tế sẽ giúp cho người dân có một kênh thông tin để tham khảo khi có nhu cầu mua bất động sản.

2. Quy định về vốn pháp định và vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư:

Nghị định 76 quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng.[5] Quy định này được bãi bỏ theo Luật đầu tư năm 2020 và theo đó tiếp tục được bãi bỏ tại Nghị định 02.

Ngoài ra, Nghị định 02 bổ sung quy định về mức vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư dự án bất động sản căn cứ theo quy mô sử dụng đất thống nhất với các quy định về điều kiện đối với người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư của Nghị định 43/2014/NĐ-CP[6] (không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án sử dụng đất từ 20 ha trở lên) cũng như cách thức xác định mức vốn chủ sở hữu này. Việc xác định vốn chủ sở hữu quy định tại khoản này được căn cứ vào kết quả báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc kết quả báo cáo kiểm toán độc lập của doanh nghiệp đang hoạt động (được thực hiện trong năm hoặc năm trước liền kề); trường hợp là doanh nghiệp mới thành lập thì xác định vốn chủ sở hữu theo vốn điều lệ thực tế đã góp theo quy định của pháp luật.[7]Với các quy định này, Nghị định 02 đã làm rõ điều kiện về năng lực tài chính của nhà đầu tư dự án bất động sản thay vì không được đề cập tại Nghị định 76, đảm bảo sự đồng bộ giữa pháp luật kinh doanh bất động sản và pháp luật đất đai cũng như những quy định mới của Luật Đầu tư 2020.

3. Áp dụng mẫu hợp đồng chung khi kinh doanh bất động sản:

Một trong những điểm mới đáng chú ý của Nghị định 02 là việc áp dụng hợp đồng mẫu trong các giao dịch bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua, cho thuê lại bất động sản và chuyển nhượng dự án bất động sản, trong đó có cả mẫu hợp đồng mua bán/thuê mua căn hộ du lịch, căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú.

Việc Nghị định 02 ban hành mẫu Hợp đồng mua bán/thuê mua căn hộ du lịch, căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú để thống nhất áp dụng, trong đó quy định rất rõ ràng và chi tiết các quy định liên quan tới như định nghĩa đối với “Căn hộ du lịch/Căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú”, “Phần sở hữu chung”, “Phần sở hữu riêng”, “Kinh phí bảo trì”, “Bảo hành”, “Đặc điểm của căn hộ du lịch/căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú được mua bán/thuê mua”, “Quyền và nghĩa vụ của các bên”… là một bước tiến quan trọng về tính pháp lý đối với các sản phẩm bất động sản này.

Ngoài ra, một điểm cần lưu ý là các mẫu hợp đồng được quy định trong Nghị định 02 mang tính bắt buộc, không còn mang tính chất tham khảo trong quá trình ký kết hợp đồng như quy định cũ tại Nghị định 76.[8]

Đối với các giao dịch chuyển nhượng bất động sản đã được ký kết trước ngày Nghị định 02 có hiệu lực, các bên không cần ký lại Hợp đồng theo quy định của Nghị định 02. Tuy nhiên, đối với các trường hợp các bên đang làm thủ tục ký kết hợp đồng mua bán, thuê mua nhà, công trình xây dựng nhưng đến ngày Nghị định 02 có hiệu lực thi hành, các bên chưa ký kết hợp đồng thì phải thực hiện ký kết hợp đồng theo quy định tại Nghị định 02.[9]

4. Điều kiện mới khi mua bán dự án nhà ở hình thành trong tương lai và nhà, công trình xây dựng có sẵn.

Nghị định 02 đã quy định chi tiết về điều kiện để chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai[10], bên cạnh quy định về điều kiện chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà có sẵn tại Nghị định 76. Việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà, công trình xây dựng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) có hợp đồng được lập theo quy định của Điều 6 Nghị định 02; (ii) thuộc diện chưa nộp hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận; (iii) hợp đồng không thuộc diện tranh chấp; và (iv) nhà, công trình thuộc hợp đồng không thuộc diện bị kê biên, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ, trừ trường hợp được bên nhận thế chấp đồng ý.

Nghị định 02 còn quy định chi tiết trình tự, thủ tục chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai và chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng có sẵn.

5. Quy định mới trong chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản.

Nghị định 02 quy định rõ về nguyên tắc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản. Theo đó, việc chuyển nhượng dự án bất động sản chỉ được thực hiện khi có đủ điều kiện và được áp dụng trong trường hợp dự án đang triển khai thực hiện theo tiến độ, nội dung dự án đã phê duyệt. Đây là điều kiện mới và yêu cầu cao hơn đối với dự án bất động sản dự kiến chuyển nhượng, so với quy định “Đối với trường hợp chuyển nhượng toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thì phải xây dựng xong các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt[11] của Luật Kinh doanh bất động sản, buộc nhà đầu tư cần nghiêm túc tuân thủ tiến độ, nội dung dự án đã phê duyệt.

Đối với các dự án bất động sản được chấp thuận nhà đầu tư và dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật Đầu Tư năm 2020, khi thực hiện chuyển nhượng, pháp luật về đầu tư sẽ được áp dụng.[12] Các dự án không thuộc các trường hợp nêu trên sẽ thực hiện chuyển nhượng theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản và Nghị định 02.

Nghị định 02 được ban hành gồm 16 điều cùng với các mẫu Hợp đồng, nhằm thay thế Nghị định 76, tạo lang pháp lý rõ ràng hơn cho thị trường bất động sản trong thời gian sắp tới.

[1] https://vietnamreport.net.vn/Top-500-Doanh-nghiep-loi-nhuan-tot-nhat-Viet-Nam-nam-2021-9998-1006.html

[2] Compound Annual Growth Rate: Tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm

[3] Điều 16.2 Nghị định số 02/2022/NĐ-CP

[4] Điều 4.1 (b) Nghị định số 02/2022/NĐ-CP

[5] Điều 3.1 Nghị định 76/2015/NĐ-CP

[6] Điều 14.2 (b) Nghị định 43/2014/NĐ-CP

[7] Điều 4.2 Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[8] Điều 7.2 (a) Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[9] Điều 14.1 và 14.2 Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[10] Điều 7 Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[11] Điều 49.1 (b) Luật kinh doanh bất động sản năm 2014

[12] Điều 46 Luật Đầu tư năm 2020.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 11, 2021 – MIỄN VÀ GIẢM THUẾ ĐỂ HỖ TRỢ CÁC DOANH NGHIỆP ẢNH HƯỞNG BỞI COVID-19

Phát hành 11/2021 

Nguyễn Bích Vân
Thành viên

Nguyễn T. Minh Thư
Luật sư trợ lý

Nằm trong nhóm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19, Chính Phủ ban hành Nghị định 92/2021 NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2021 thực hiện Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nghị định 92 quy định chi tiết các nội dung có ảnh hưởng tới doanh nghiệp gồm về (i) giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, (ii) giảm thuế giá trị gia tăng, (iii) miễn tiền chậm nộp.

Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Các doanh nghiệp, tổ chức được thành lập theo quy định pháp luật Việt Nam, theo Luật Hợp tác xã mà có doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2021 không quá 200 tỷ đồng và doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2021 giảm so với doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2019 được áp dụng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Riêng với doanh nghiệp mới thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách trong kỳ tính thuế năm 2020 và năm 2021, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng miễn là đáp ứng điều kiện có doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2021 không quá 200 tỷ đồng.

Mức giảm thuế là 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2021. Số tiền thuế được giảm được tính trên toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp, bao gồm cả thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (trừ nhà ở xã hội); thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư; và các thu nhập khác được loại trừ khi áp dụng ưu đãi thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Không áp dụng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối các khoản giảm trừ doanh thu, doanh thu từ hoạt động tài chính và thu nhập khác. Số thuế được giảm theo Nghị định 92 không bao gồm số thuế mà doanh nghiệp đang được hưởng ưu đãi theo quy định hiện hành.

Ngoài ra, Nghị định 92 cũng hướng dẫn cách xác định doanh thu đối với doanh nghiệp có thời gian hoạt động chưa đủ 12 tháng và cách thức kê khai giảm thuế.

Giảm thuế giá trị gia tăng

Doanh nghiệp, tổ chức được giảm 30% thuế giá trị gia tăng hoặc 30% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng tùy thuộc vào phương pháp tính thuế. Thời gian giảm thuế giá trị gia tăng kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2021.

Tuy nhiên, việc giảm thuế giá trị gia tăng chỉ áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19: (i) Dịch vụ vận tải (vận tải đường sắt, vận tải đường thủy, vận tải hàng không, vận tải đường bộ khác); dịch vụ lưu trú; dịch vụ ăn uống; dịch vụ của các đại lý du lịch, kinh doanh tua du lịch và các dịch vụ hỗ trợ, liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du lịch; (ii) Sản phẩm và dịch vụ xuất bản; dịch vụ điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và xuất bản âm nhạc; tác phẩm nghệ thuật và dịch vụ sáng tác, nghệ thuật, giải trí; dịch vụ của thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác; dịch vụ thể thao, vui chơi và giải trí. Hàng hóa, dịch vụ trong nhóm (ii) không bao gồm phần mềm xuất bản và các hàng hóa, dịch vụ sản xuất, kinh doanh theo hình thức trực tuyến.

Ngoài lưu ý về cách thức ghi khi lập hóa đơn giá trị gia tăng, xử lý các hóa đơn đã lập mà chưa ghi chú về việc giảm thuế, doanh nghiệp, tổ chức cần thực hiện kê khai các hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng theo “Phụ lục giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15” tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này cùng với Tờ khai thuế giá trị gia tăng.

Miễn tiền chậm nộp

Doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ trong kỳ tính thuế năm 2020 được miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Trường hợp số tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp tăng lên do doanh nghiệp tự bổ sung hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng không phải nộp tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020, năm 2021 đối với số tiền phải nộp tăng thêm đó nếu đáp ứng điều kiện về lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế năm 2020. Tuy nhiên, không áp dụng với trường hợp doanh nghiệp đã nộp tiền chậm nộp trước thời điểm có hiệu lực của Nghị định này.

Để được miễn tiền chậm nộp, doanh nghiệp cần lập văn bản đề nghị miễn tiền chậm nộp làm căn cứ cho cơ quan thuế quản lý khoản thuế, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và cơ quan thuế quản lý trực tiếp xác định điều kiện lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế năm 2020 và xem xét miễn tiền chậm nộp. Thời hạn xem xét của cơ quan thuế là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị miễn tiền chậm nộp.

Cần lưu ý, trường hợp cơ quan thuế xác định sai quyền được miễn tiền chậm nộp, cơ quan thuế có thể thu hồi quyết định miễn tiền chậm nộp và doanh nghiệp phải tiến hành nộp theo quy định pháp luật.

Nghị định 92 có hiệu lực kể từ ngày 19 tháng 10 năm 2021.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 10, 2021 – NGHỊ ĐỊNH 85/2021: MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

Phát hành 10/2021

Hà Thị Hải
Luật sư Thành viên

Phan Thị Minh
Trợ lý Pháp lý

Kể từ khi ban hành Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử (“Nghị định 52”), tốc độ phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam có sự tăng trường mạnh mẽ, doanh thu TMĐT bán lẻ tăng từ 2,2 tỷ USD năm 2013 lên 11,8 tỷ USD năm 2020.[1] Trước sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin và Internet nói chung và hoạt động TMĐT nói chung, ngày 25/09/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2021/NĐ-CP (“Nghị định 85”) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 52 để đáp ứng các yêu cầu mới về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TMĐT. Nghị định này bắt đầu có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2022. Dưới đây là các điểm mới đáng chú ý tại Nghị định này:

1. Giới hạn phạm vi điều chỉnh

Nghị định 85 quy định rõ các hoạt động TMĐT đã được quy định tại pháp luật chuyên ngành sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này, cụ thể trong các lĩnh vực sau: dịch vụ tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, xổ số; mua bán, trao đổi tiền, vàng, ngoại hối và các phương tiện thanh toán khác; dịch vụ đặt cược hoặc trò chơi có thưởng; dịch vụ phân phối, phát hành sản phẩm nội dung thông tin số, dịch vụ phát thanh, truyền hình. Quy định này nhằm tránh sự chồng chéo về phạm vi điều chỉnh giữa Nghị định về TMĐT và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.

2. Thu gọn đối tượng phải thực hiện thủ tục thông báo với Bộ Công thương

Trước đây, Nghị định 52 yêu cầu tất cả cá nhân, tổ chức thiết lập website TMĐT bán hàng phải thực hiện thủ tục thông báo với Bộ Công thương. Tuy nhiên quy định này là không cần thiết đối với website đơn giản, không có chức năng đặt hàng trực tuyến, chỉ đơn thuần giới thiệu doanh nghiệp, sản phẩm/dịch vụ đang cung cấp. Do vậy, Nghị định 85 đã sửa đổi quy định này và chỉ yêu cầu phải thông báo việc thiết lập website TMĐT bán hàng nếu website đó có chức năng đặt hàng trực tuyến.

3. Điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ TMĐT

Đây là quy định hoàn toàn mới và quan trọng của Nghị định 85 đối với hoạt động thương mại điện tử có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong bối cảnh sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong thị trường TMĐT của Việt Nam ngày càng sâu rộng. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh hoạt động cung cấp dịch vụ TMĐT dưới hình thức thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần.

Nhà đầu tư nước ngoài chi phối từ 01 doanh nghiệp trở lên thuộc nhóm 05 doanh nghiệp dẫn đầu thị trường dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam theo danh sách do Bộ Công Thương công bố phải có ý kiến thẩm định về an ninh quốc gia của Bộ Công an khi xin cấp/điều chỉnh Giấy phép kinh doanh. Chi phối được hiểu là nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở lên hoặc có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp hoặc có quyền quyết định các vấn đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Các điều kiện trên không áp dụng đối với nhà đầu tư có hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài khi thực hiện thủ tục đăng ký thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử với Bộ Công Thương được yêu cầu phải nộp Giấy phép kinh doanh. Đây là giấy phép cấp cho nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài khi cung cấp dịch vụ thương mại điện tử theo quy định tại Nghị định 09/2018/NĐ-CP về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

4. Trách nhiệm của thương nhân, tổ chức nước ngoài có website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam

Một điểm mới quan trọng đối với các website thương mại điện tử nước ngoài là quy định Thương nhân tổ chức nước ngoài có website thương mại điện tử mà (i) có tên miền Việt Nam; (ii) ngôn ngữ hiển thị là tiếng Việt, hoặc (iii) có trên 100.000 lượt giao dịch từ Việt Nam trong một năm, thì có các trách nhiệm sau đây:

  • Thực hiện đăng ký hoạt động thương mại điện tử theo quy định tại Nghị định này và thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hoặc chỉ định đại diện theo ủy quyền của mình tại Việt Nam
  • Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước trong việc ngăn chặn các giao dịch hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật Việt Nam;
  • Thực hiện các nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam;
  • Thực hiện nghĩa vụ báo cáo theo quy định

Như vậy các website thương mại điện tử nước ngoài có một trong các yếu tố nêu trên bắt buộc phải có hiện diện thương mại hoặc đại diện uỷ quyền tại Việt Nam và đăng ký hoạt động với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thay vì chỉ bán hàng hoá cung cấp dịch vụ qua biên giới mà không chịu sự quản lý của Chính phủ Việt Nam.

5. Mạng xã hội có thể được xem là sàn thương mại điện tử

Mạng xã hội có một trong các hình thức hoạt động sau và người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trả phí cho việc thực hiện các hoạt động đó sẽ được coi là sàn thương mại điện tử và phải tuân thủ theo các quy định đối với hoạt động của sàn TMĐT:

  • Cho phép người tham gia được mở các gian hàng để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ;
  • Cho phép người tham gia được mở tài khoản để thực hiện quá trình giao kết hợp đồng với khách hàng;
  • Có chuyên mục mua bán, trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ

Như vậy các mạng xã hội nước ngoài lớn như Facebook, Instagram sẽ chính thức được coi là Sàn giao dịch thương mại điện tử hoạt động tại Việt Nam và có trách nhiệm tuân thủ các quy định về hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam theo quy định tại Nghị định 85.

6. Tăng cường trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp sàn giao dịch TMĐT

Nhằm mục tiêu minh bạch hóa thông tin cho người tiêu dùng, phòng chống gian lận thương mại, Nghị định 85 bổ sung trách nhiệm của của thương nhân, tổ chức cung cấp sàn giao dịch TMĐT như sau:

  • Yêu cầu người bán cung cấp thông tin về tên, địa chỉ, mã số định danh, số điện thoại. Với người bán nước ngoài, các tên riêng được phiên âm tiếng Việt hoặc thể hiện bằng ký tự La tinh.
  • Xác minh danh tính của người bán nước ngoài, đồng thời yêu cầu thương nhân thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam hoặc tổ chức việc thực hiện hoạt động nhập khẩu theo ủy thác của người mua hoặc chỉ định đại lý thương mại của mình tại Việt Nam.
  • Phối hợp với các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ rà soát và gỡ bỏ các sản phẩm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy trình, thủ tục công bố tại Quy chế hoạt động của sàn giao dịch thương mại điện tử.
  • Ngăn chặn và loại bỏ khỏi website những thông tin mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật
  • Gỡ bỏ thông tin về hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật trong vòng 24 giờ kể từ khi nhận được yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
  • Cung cấp thông tin về đối tượng có dấu hiệu, hành vi vi phạm pháp luật trên sàn giao dịch thương mại điện tử cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện hoặc nhận được các thông tin nêu trên;

Đặc biệt, đặc biệt đối với những sàn giao dịch TMĐT bán lẻ có tích hợp chức năng đặt hàng và thanh toán trực tuyến, Nghị định 85 yêu cầu thêm như sau:

  • Chỉ định đầu mối tiếp nhận yêu cầu và cung cấp thông tin trực tuyến cho cơ quan quản lý nhà nước về các đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; đầu mối này sẽ cung cấp thông tin trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm tiếp nhận yêu cầu để kịp thời phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
  • Đại diện cho người bán nước ngoài trên sàn giao dịch thương mại điện tử giải quyết các khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến hàng hóa, dịch vụ do thương nhân nước ngoài cung cấp và có trách nhiệm thông báo nghĩa vụ thuế của người bán nước ngoài khi tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử theo quy định của pháp luật Việt Nam;
  • Là đầu mối tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của người tiêu dùng trong trường hợp một giao dịch thực hiện trên sàn giao dịch thương mại điện tử có nhiều hơn 02 bên tham gia;
  • Lưu trữ thông tin về các giao dịch đặt hàng được thực hiện trên sàn giao dịch thương mại điện tử theo quy định của pháp luật về kế toán;
  • Liên đới bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ quy định tại các khoản 8, khoản 9 Điều này mà gây thiệt hại.

7. Sự tham gia của thương nhân, tổ chức cung ứng dịch vụ logistics

Nghị định 85 chính thức công nhận thương nhân, tổ chức cung ứng dịch vụ logistics là một chủ thể của hoạt động thương mại điện tử. Nghị định này yêu cầu các website TMĐT bán hàng và sàn thương mại điện tử phân định rõ trách nhiệm về cung cấp chứng từ hàng hóa trong quá trình giao nhận của bên cung cấp dịch vụ logistics. Ngoài ra, thương nhân, tổ chức thiết lập website cung cấp dịch vụ TMĐT cũng phải bổ sung làm rõ mô hình hoạt động logistics đối với hàng hóa tại Đề án cung cấp dịch vụ TMĐT và Quy chế hoạt động của sàn giao dịch.

8. Công khai thông tin hàng hóa, dịch vụ trên website

Nghị định 85 sửa đổi quy định về thông tin hàng hóa, dịch vụ trong hoạt động TMĐT tại Điều 30 Nghị định 52 theo hướng quản lý chặt hơn như sau: Thông tin về hàng hóa công bố trên website phải bao gồm các nội dung bắt buộc thể hiện trên nhãn hàng hóa theo quy định pháp luật về nhãn hàng hóa, trừ các thông tin có tính chất riêng biệt theo sản phẩm như: năm, tháng, ngày sản xuất; hạn sử dụng; số lô sản xuất; số khung, số máy. Đồng thời, người bán hàng hóa, dịch vụ phải đáp ứng điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải công bố số, ngày cấp và nơi cấp Giấy phép, Giấy chứng nhận đủ điều kiện, văn bản xác nhận, hoặc các hình thức văn bản khác theo quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh của ngành, nghề đó.

[1] Sách trắng Thương mại Điện tử Việt Nam 2021

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 08, 2021 – Nghị Định Số 47/2021/NĐ-CP Quy Định Chi Tiết Một Số Điều Của Luật Doanh Nghiệp 2020

Phát hành 08/2021

Huỳnh Hoàng Sang
Luật sư Cộng sự

Nguyễn Thị Thu Hà
Trợ lý Luật sư

Ngày 01 tháng 04 năm 2021, Chính Phủ ban hành Nghị Định Số 47/2021/NĐ-CP Quy Định Chi Tiết Một Số Điều Của Luật Doanh Nghiệp 2020 thay thế Nghị định số 81/2015/NĐ-CP, Nghị định số 93/2015/NĐ-CP, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP và Quyết định số 35/2013/QĐ-TTg (“Nghị Định 47”). Nghị Định 47 sẽ hướng dẫn thực hiện một số quy định liên quan đến doanh nghiệp và cụ thể hóa một số vấn đề chưa được ghi nhận cụ thể trong Luật Doanh Nghiệp 2015 và sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 04 năm 2021.

Doanh Nghiệp Xã Hội

Nghị Định 47 bổ sung và quy định rõ hơn trách nhiệm của doanh nghiệp xã hội phải duy trì mục tiêu xã hội, môi trường, mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư và nội dung khác ghi tại Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường trong suốt quá trình hoạt động. Trừ trường hợp chấm dứt mục tiêu xã hội, môi trường trước thời hạn đã cam kết, doanh nghiệp xã hội phải hoàn lại toàn bộ các ưu đãi, khoản viện trợ, tài trợ mà doanh nghiệp xã hội đã tiếp nhận để thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường đã đăng ký nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường và mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư.

Doanh nghiệp xã hội thực hiện chia, tách doanh nghiệp, hợp nhất, sáp nhập với doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp khác theo quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp.

Trường hợp chấm dứt mục tiêu xã hội, môi trường trước thời hạn đã cam kết và giải thể doanh nghiệp xã hội, số dư tài sản hoặc tài chính còn lại đối với nguồn tài sản, tài chính mà doanh nghiệp xã hội đã nhận phải trả lại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã viện trợ, tài trợ; chuyển cho các doanh nghiệp xã hội khác, tổ chức khác có mục tiêu xã hội tương tự hoặc chuyển giao cho Nhà nước theo quy định của Bộ luật dân sự.

Công Bố Thông Tin Của Doanh Nghiệp Nhà Nước

Liên quan đến công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước, Nghị Định 47 quy định về công bố thông tin dưới các hình thức, bao gồm: (i) Trang thông tin điện tử của doanh nghiệp; (ii) Cổng hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan đại diện chủ sở hữu; và (iii) Cổng thông tin doanh nghiệp.

Trước đây, chỉ có doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ. Tuy nhiên, Nghị Định 47 đã bổ sung quy định mới, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết thực hiện công bố thông tin định kỳ như sau:

  • Thông tin cơ bản về doanh nghiệp và điều lệ công ty.
  • Báo cáo đánh giá về kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm theo mẫu kèm theo Nghị định này trước ngày 30 tháng 6 của năm liền sau năm thực hiện.
  • Báo cáo thực trạng quản trị và cơ cấu tổ chức 06 tháng của doanh nghiệp theo mẫu kèm theo Nghị định này trước ngày 31 tháng 7 hằng năm.
  • Báo cáo thực trạng quản trị và cơ cấu tổ chức hằng năm của doanh nghiệp theo mẫu kèm theo Nghị định này trước ngày 30 tháng 6 của năm liền sau năm thực hiện.
  • Báo cáo và tóm tắt báo cáo tài chính giữa năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập trước ngày 31 tháng 7 hàng năm.
  • Báo cáo và tóm tắt báo cáo tài chính hằng năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập, bao gồm báo cáo tài chính của công ty mẹ và báo cáo tài chính hợp nhất (nếu có) theo quy định pháp luật về kế toán doanh nghiệp trong vòng 150 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.

Sở Hữu Chéo Giữa Các Công Ty Trong Nhóm Công Ty

Công ty con không được đầu tư mua cổ phần, góp vốn vào công ty mẹ. Các công ty con của cùng một công ty mẹ không được đồng thời cùng góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau.

Các công ty con có cùng một công ty mẹ là doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước nắm giữ từ 65% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên không được cùng góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới, cùng mua phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp đã thành lập, và cùng nhận chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của các thành viên, cổ đông của doanh nghiệp đã thành lập. Cơ quan đăng ký kinh doanh từ chối đăng ký thay đổi thành viên, cổ đông công ty nếu trong quá trình thụ lý hồ sơ phát hiện có vi phạm liên quan đến các quy định này.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 06, 2021 – Những quy định đáng chú ý của nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư 2020

Phát hành 06/2021

Hà Thị Hải
Luật sư Thành viên

Phan Văn Huy
Trợ lý Luật sư

Ngày 26 tháng 3 năm 2021, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 31/2021/NĐ-CP (“Nghị định 31”) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư về điều kiện đầu tư kinh doanh; ngành, nghề và điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài; bảo đảm đầu tư kinh doanh; ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; thủ tục đầu tư; hoạt động đầu tư ra nước ngoài; xúc tiến đầu tư; quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư ra nước ngoài. Nghị định 31 có những nội dung đáng chú ý sau đây:

1. Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài

Tuân thủ cam kết về mở cửa thị trường của Việt Nam theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, một trong những điểm thay đổi quan trọng nhất của Luật đầu tư 2020 là quy định Nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư trong nước, trừ trường hợp đầu tư vào ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, Nghị định 31 đã ban hành Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Danh mục này quy định 84 ngành, nghề, trong đó bao gồm 25 ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài, và 59 ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài. Theo nguyên tắc chọn – bỏ, Nghị định 31 một lần nữa khẳng định trừ những ngành, nghề thuộc Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư trong nước.

Nghị định 31 bổ sung khái niệm “Ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường là ngành, nghề mà theo các điều ước quốc tế về đầu tư Việt Nam không có cam kết, chưa cam kết hoặc bảo lưu quyền ban hành các biện pháp không phù hợp với nghĩa vụ về tiếp cận thị trường, nghĩa vụ đối xử quốc gia hoặc các nghĩa vụ khác về không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài được quy định tại các điều ước quốc tế về đầu tư đó”. Đối với các ngành nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường, điều kiện tiếp cận thị trường sẽ được áp dụng theo quy định pháp luật Việt Nam nếu có. Trường hợp pháp luật Việt Nam không có quy định hạn chế tiếp cận thị trường đối với ngành, nghề đó thì nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư trong nước. Điều này có nghĩa là, theo quy định của Nghị định 31, về nguyên tắc, sẽ không còn quy trình lấy ý kiến của các Bộ quản lý ngành khi cơ quan đăng ký đầu tư xem xét cấp phép đầu tư nước ngoài trong các ngành nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường.

Điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong các ngành, nghề quy định tại Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ được đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đầu tư.

Thay đổi trên đây là một điểm mới rất quan trọng của Luật đầu tư 2020 khi chuyển từ nguyên tắc chọn – cho sang nguyên tắc chọn – bỏ để xem xét áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài, thể hiện nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế 4.0 xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh mới. Tuy nhiên trên thực tế, các cơ quan quản lý ngành cũng như các cơ quan cấp phép địa phương sẽ mất nhiều thời gian để rà soát, nghiên cứu, thống nhất, triển khai thi hành quy định mới này.

2. Quy định chi tiết nhiều trường hợp điều chỉnh dự án đầu tư

Một trong những điểm mới quan trọng của Nghị định 31 nói riêng và Luật đầu tư 2020 nói chung là việc tạo hành lang pháp lý cụ thể rõ ràng cho một số hình thức mua bán sáp nhập, điều chỉnh dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư có sử dụng đất. Trước khi Luật đầu tư 2020 và Nghị định 31 ra đời, các hình thức mua bán sáp nhập dự án như tách dự án, sử dụng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để góp vốn hoặc hợp tác kinh doanh gặp khó khăn tại nhiều địa phương trên thực tế do chưa có quy định pháp luật cụ thể. Nay, ngoài các hình thức điều chỉnh dự án đã kế thừa từ Luật đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP như:

  • Điều chỉnh dự án đầu tư trong trường hợp nhà đầu tư chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư
  • Điều chỉnh dự án đầu tư trong trường hợp chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình tổ chức kinh tế
  • Điều chỉnh dự án đầu tư theo bản án, quyết định của tòa án, trọng tài

Nghị định 31 bổ sung thêm các trường hợp điều chỉnh dự án mới gồm:

  • Điều chỉnh dự án đầu tư trong trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng dự án đầu tư là tài sản bảo đảm
  • Điều chỉnh dự án đầu tư trong trường hợp chia, tách, sáp nhập dự án đầu tư
  • Điều chỉnh dự án đầu tư trong trường hợp sử dụng quyền sử đất, tài sản gắn liền với đất thuộc dự án đầu tư để góp vốn vào doanh nghiệp
  • Điều chỉnh dự án đầu tư trong trường hợp sử dụng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thuộc dự án đầu tư để hợp tác kinh doanh

Các hình thức điều chỉnh dự án mới tại Nghị định 31 được kỳ vọng sẽ góp phần làm sôi động thị trường mua bán sáp nhập dự án, đặc biệt là các dự án có sử dụng đất, trong bối cảnh nền kinh tế đang chịu sự ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19.

3. Điều kiện đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp

Nhằm thắt chặt quản lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp, Luật Đầu tư 2020 đã bổ sung thêm hai điều kiện phải đáp ứng đối với trường hợp đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp là: Bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật đầu tư; và Đáp ứng quy định của pháp luật về đất đai về điều kiện nhận quyền sử dụng đất, điều kiện sử dụng đất tại đảo, xã, phường, thị trấn biên giới, xã, phường, thị trấn ven biển. Theo đó, Nghị định 31 bổ sung cơ chế lấy ý kiến của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an về việc đáp ứng các điều kiện nêu trên đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào tổ chức kinh tế có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại đảo, xã, phường, thị trấn biên giới và xã, phường, thị trấn ven biển; khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, trừ trường hợp tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế được thành lập theo quy định của Chính phủ.

Để làm rõ điều kiện về khu vực có ảnh hưởng đến quốc phòng an ninh, Nghị định 31 đã đưa ra khái niệm “Khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh” bao gồm nhiều khu vực theo pháp luật về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; theo pháp luật về cảnh vệ; theo pháp luật về bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia; theo quy định của Chính phủ về kết hợp quốc phòng với kinh tế – xã hội và kinh tế – xã hội với quốc phòng; theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát triển kinh tế – xã hội; Khu vực không cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở để bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật về nhà ở.

Trên thực tế, đối với các nhà đầu tư nước ngoài và cả doanh nghiệp Việt Nam, việc xác định một địa điểm cụ thể có thuộc “Khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh” hay không là một công việc khó khăn phức tạp do có rất nhiều văn bản luật liên quan, thậm chí có những văn bản nội bộ của các cơ quan Nhà nước không được công bố.

4. Ký quỹ bảo đảm thực hiện dự án đầu tư

Luật Đầu tư 2020 đã đưa ra một quy định mới có lợi cho nhà đầu tư khi cho phép nhà đầu tư bảo đảm thực hiện dự án bằng việc nộp bảo lãnh của tổ chức tín dụng về nghĩa thay vì bắt buộc phải nộp ký quỹ bằng tiền.

Nghị định 31 đã làm rõ nhà đầu tư thực hiện ký quỹ hoặc nộp chứng thư bảo lãnh của tổ chức tín dụng sau khi được chấp thuận nhà đầu tư hoặc phê duyệt kết quả trúng đấu giá, và trước khi thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng (đối với trường hợp nhà đầu tư không tạm ứng tiền bồi thường hỗ trợ tái định cư), hoặc trước khi ban hành quyết định giao đất cho thuê đất cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Trong trường hợp việc bảo đảm thực hiện dự án bằng bảo lãnh của tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng sẽ phải nộp số tiền ký quỹ mà nhà đầu tư phải nộp trong trường hợp dự án bị chậm tiến độ đưa vào khai thác vận hành hoặc trường hợp dự án bị cơ quan đăng ký đầu tư chấm dứt hoạt động (trừ trường hợp chấm dứt dự án để bảo vệ di tích di vật cổ vật bảo vật quốc gia).

5. Bổ sung điều kiện, thủ tục ngừng hoạt động dự án đầu tư

Luật đầu tư 2020 đưa ra quy định mới cho phép nhà đầu tư được ngừng hoạt động của dự án đầu tư (mà không phải là chấm dứt dự án đầu tư). Đặc biệt trường hợp ngừng hoạt động của dự án vì lý do bất khả kháng thì nhà đầu tư được miễn tiền thuê đất, giảm tiền sử dụng đất trong thời gian ngừng hoạt động.

Nghị định 31 quy định về điều kiện và trình tự thủ tục ngừng hoạt động của dự án đầu tư trong các trường hợp tự quyết định ngừng hoạt động của dự án đầu tư; cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định ngừng hoạt động của dự án đầu tư; dự án đầu tư gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia. Tổng thời gian ngừng hoạt động của dự án đầu tư không quá 12 tháng.

6. Thu hút đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo

Nghị định 31 bổ sung quy định về việc tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào các doanh nghiệp này. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài chỉ phải thực hiện thủ tục như quy định đối với nhà đầu tư trong nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp mà không phải thực hiện thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hay đăng ký góp vốn mua cổ phần nếu doanh nghiệp đó đáp ứng một trong các điều kiện nhất định của dự án đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.

7. Nghị định 31 sửa đổi bổ sung, thay thế bãi bỏ nhiều Nghị định khác

Nghị định 31 có hiệu lực kể từ ngày 26 tháng 3 năm 2021 sửa đổi bổ sung một loạt các Nghị định có liên quan để phù hợp với các thay đổi mới tại Nghị định 31 như:

  • Nghị định 46/2014/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
  • Nghị định 52/2020/NĐ-CP về đầu tư xây dựng và kinh doanh sân gôn;
  • Nghị định 25/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư;
  • Nghị định 96/2016/NĐ-CP quy định điều kiện an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện;
  • Nghị định 82/2018/NĐ-CP quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế;
  • Nghị định 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị;
  • Nghị định 99/2003/NĐ-CP ban hành quy chế khu công nghệ cao;
  • Nghị định 94/2020/NĐ-CP quy định cơ chế, chính sách ưu đãi đối với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia.

Đồng thời thay thế và bãi bỏ nhiều nghị định và quy định dưới đây:

  • Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư 2014;
  • Nghị định số 37/2020/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2020 bổ sung Danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;
  • Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài;
  • Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ đòi nợ;
  • Nghị định số 69/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ;
  • Nghị định số 79/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý vận hành nhà chung cư; kiến thức hành nghề môi giới bất động sản, điều hành sàn giao dịch bất động sản;
  • Điều 2 của Nghị định số 100/2018/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2021 – QUY ĐỊNH MỚI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CHẾ XUẤT

Phát hành tháng 04 năm 2021

Nguyễn Thị Ngân
Trợ lý Pháp lý

Nghị định 18/2021/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định 134/2016/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ có hiệu lực vào ngày 25/4/2021. Điểm nổi bật của Nghị định mới là quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục đăng ký, cơ chế quản lý, giám sát các doanh nghiệp chế xuất (“DNCX”). Thủ tục đăng ký để áp dụng cơ chế chế xuất của doanh nghiệp được đơn giản hóa và thống nhất quy trình giữa các cơ quan quản lý là cơ quan cấp phép đầu tư (Sở KHĐT hoặc Ban QL KCN) và cơ quan hải quan. Cơ quan cấp phép phê chuẩn đăng ký loại hình DNCX dựa trên bản cam kết đáp ứng điều kiện của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sau đó sẽ có một khoảng thời gian mở là 1 năm kể từ ngày bắt đầu đi vào hoạt động để hoàn thành cơ sở hạ tầng đáp ứng các điều kiện đối với DNCX.

1. Điu kin kim tra, giám sát hi quan đối vi DNCX

Điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan đối với DNCX bao gồm:

a) Có hàng rào cứng ngăn cách với khu vực bên ngoài; có cổng/cửa ra, vào đảm bảo việc đưa hàng hóa ra, vào doanh nghiệp chế xuất chỉ qua cổng/cửa.

b) Có hệ thống ca-mê-ra quan sát được các vị trí tại cổng/cửa ra, vào và các vị trí lưu giữ hàng hóa ở tất cả các thời điểm trong ngày (24/24 giờ, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ); dữ liệu hình ảnh ca-mê-ra được kết nối trực tuyến với cơ quan hải quan quản lý doanh nghiệp và được lưu giữ tại doanh nghiệp chế xuất tối thiểu 12 tháng.

c) Có phần mềm quản lý hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế của doanh nghiệp chế xuất để báo cáo quyết toán nhập- xuất- tồn về tình hình sử dụng hàng hóa nhập khẩu theo quy định pháp luật về hải quan.

2. Kim tra thc tế điu kin kim tra, giám sát hi quan

Việc kiểm tra thực tế điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan theo Nghị định 18 sẽ được áp dụng đối với DNCX đăng ký theo quy định mới và các DNCX đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trước ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành và đang trong quá trình hoạt động, bao gồm cả các doanh nghiệp chế xuất đã được cơ quan hải quan xác nhận về điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan trước ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành.

Tất cả các DNCX đang trong quá trình hoạt động có thời hạn tối đa không quá 01 năm kể từ ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành (25/4/2022) phải hoàn thiện các điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan và đăng ký để Chi cục Hải quan nơi quản lý doanh nghiệp chế xuất hoàn thành kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan và ra văn bản xác nhận đủ điều kiện cho doanh nghiệp chế xuất.

Quá thời hạn 01 năm kể từ ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành, DNCX (i) không thực hiện thông báo; hoặc (ii) không đáp ứng các điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan thì không được áp dụng chính sách thuế đối với khu phi thuế quan kể từ ngày quá thời hạn 01 năm nêu trên. Khi đó, DNCX sẽ phải trả lại các khoản thuế chưa đóng do được hưởng ưu đãi của DNCX.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 02, 2021 – Những điểm mới của Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP)

Vol 2 phát hành 02/2021

 

Nguyễn Thị Ngân
Trợ lý Pháp lý

Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) đã được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2020 và sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2021. Luật PPP bao gồm 11 chương và 101 điều, được soạn thảo để thu hút nhiều nguồn lực hơn từ khu vực tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, “PPP vì con người” (people-first-PPP) như khuyến cáo của Liên Hợp Quốc. Luật PPP có nhiều điểm mới nổi bật, làm rõ một số quy định chưa cụ thể của Nghị định 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Nghị định 63), tích hợp các quy định liên quan từ Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công,… tạo ra hành lang pháp lý mạnh mẽ hơn cho việc triển khai các dự án PPP.

1. Giảm số lượng lĩnh vực đầu tư

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư quy định 5 lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP, ít hơn so với 9 lĩnh vực được quy định tại Nghị định 63. Năm lĩnh vực bao gồm (i) Giao thông vận tải (ii) Lưới điện, nhà máy điện, trừ nhà máy thủy điện và các trường hợp Nhà nước độc quyền theo quy định của Luật Điện lực (iii) Thủy lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải (iv) Y tế; giáo dục – đào tạo (v) Hạ tầng công nghệ thông tin.

Trong đó, quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án thuộc lĩnh vực Y tế; giáo dục – đào tạo không thấp hơn 100 tỷ đồng và quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của các dự án còn lại không thấp hơn 200 tỷ đồng, trường hợp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư thì không thấp hơn 100 tỷ đồng.

2. Quy định mi v Hp đồng d án PPP

Phân loi hp đồng d án (Điều 45 Luật PPP)

Hợp đồng dự án PPP gồm 2 nhóm chính (i) Nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế thu phí trực tiếp từ người sử dụng hoặc tổ chức bao tiêu sản phẩm, dịch vụ công, bao gồm: Hợp đồng BOT (build-operate-transfer); Hợp đồng BTO (build-transfer-operate); Hợp đồng BOO (build-own-operate); Hợp đồng O&M (operate-maintain); (ii) Nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế Nhà nước thanh toán trên cơ sở chất lượng sản phẩm, dịch vụ công, bao gồm: Hợp đồng BTL (build-transfer-lease) và  BLT (build-lease-transfer). Ngoài ra, các bên có thể ký kết hợp đồng theo hình thức hỗn hợp kết hợp giữa các loại hợp đồng trên.

Loi b hình thc hp đồng BT (build-transfer)

Hình thức hợp đồng BT trong Nghị định 63 đã bị loại bỏ khi xét đến các hệ lụy và bản chất không phù hợp với nguyên tắc hợp tác công tư.

Pháp lut Điu chnh hp đồng là lut Vit Nam

Khác với quy định tại Nghị định 63 cho phép các bên ký kết có thể thỏa thuận việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh hợp đồng dự án và các hợp đồng, thỏa thuận khác có liên quan theo quy định của Bộ luật dân sự ( Điều 46 Nghị định 63), Điều 55 Luật PPP quy định hợp đồng dự án PPP và các phụ lục hợp đồng, các văn bản có liên quan khác được ký kết giữa cơ quan nhà nước Việt Nam với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam, đối với những vấn đề pháp luật Việt Nam không có quy định, các bên có thể thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng dự án PPP trên cơ sở không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

3. Quy định v Hi đồng thm định d án PPP

Luật PPP quy định cụ thể về nguyên tắc thành lập và cơ chế hoạt động của hội đồng thẩm định dự án PPP. Phụ thuộc vào cấp quyết định chủ trương đầu tư, việc thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi sẽ do hội đồng thẩm định nhà nước; Hội đồng thẩm định liên ngành hoặc Hội đồng thẩm định cấp cơ sở. (Điều 6 Luật PPP)

4. Quy định v vn nhà nước tham gia thc hin d án PPP

Theo Điều 69.2 Luật PPP, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án. Luật cũng quy định chi tiết mục đích sử dụng vốn nhà nước trong các dự án PPP. Khi chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng nguồn vốn nhà nước trong các dự án PPP, quy định về mục đích sử dụng của nguồn vốn nhà nước rất hạn chế, chỉ giới hạn ở các mục đích sau, đây có thể là một cản trở cho việc thực hiện các dự án PPP sau này:

  1. Hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP;
  2. Thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công;
  3. Chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công hình tạm;
  4. Chi trả phần giảm doanh thu;
  5. Chi phí của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng, đơn vị chuẩn bị dự án PPP, bên mời thầu để thực hiện các hoạt động thuộc nhiệm vụ của mình quy định tại Điều 11 của Luật này;
  6. Chi phí của Hội đồng thẩm định dự án PPP, đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định dự án PPP.

5. Tích hp quy định v quy trình la chn nhà đầu tư

Quy trình lựa chọn nhà đầu tư được quy định trong đấu thầu lần đầu tiên được tích hợp trong các quy định của luật PPP thay vì được dẫn chiếu đến Luật Đấu thầu như trước đây. Cụ thể, việc lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo quy trình sau đây (Điều 28.1 Luật PPP):

  1. Lựa chọn danh sách ngắn (nếu áp dụng);
  2. Chuẩn bị lựa chọn nhà đầu tư;
  3. Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư;
  4. Đánh giá hồ sơ dự thầu;
  5. Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà đầu tư;
  6. Đàm phán, hoàn thiện, ký kết hợp đồng dự án PPP, công khai thông tin hợp đồng.

6. Đảm bo d thu

Căn cứ vào quy mô và tính chất của từng dự án, giá trị bảo đảm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu lựa chọn nhà đầu tư theo mức xác định từ 0,5% đến 1,5% tổng mức đầu tư của dự án. Bảo đảm dự thầu không được hoàn trả trong các trường hợp Nhà đầu tư rút hồ sơ dự thầu trong thời gian hồ sơ dự thầu còn hiệu lực hoặc Nhà đầu tư vi phạm pháp luật về đấu thầu dẫn đến phải hủy thầu hoặc Nhà đầu tư không tiến hành hoặc từ chối tiến hành đàm phán, hoàn thiện hợp đồng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu hoặc đã đàm phán, hoàn thiện hợp đồng nhưng từ chối ký kết hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc Doanh nghiệp dự án PPP do nhà đầu tư thành lập không thực hiện bảo đảm thực hiện hợp đồng theo quy định. (Điều 33 Luật PPP)

 7. Các cơ chế bo đảm ca Nhà nước

 Cơ chế chia s phn tăng, gim doanh thu

Theo quy định tại Điều 82 Luật PPP, khi doanh thu thực tế đạt cao hơn 125% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chia sẻ với Nhà nước 50% phần chênh lệch giữa doanh thu thực tế và mức 125% doanh thu trong phương án tài chính. Ngược lại, đối với dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BOO, trong trường hợp quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan thay đổi làm doanh thu thực tế đạt thấp hơn 75% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP thì Nhà nước chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP 50% phần chênh lệch giữa mức 75% doanh thu trong phương án tài chính và doanh thu thực tế.

Việc chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu này của Nhà nước điều được áp dụng sau khi đã điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công, điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án PPP và được kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán phần tăng/giảm doanh thu.

 Cơ chế đảm bo cân đối ngoi t đối vi d án PPP

Theo quy định tại Điều 81 Luật PPP, chỉ dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ mới được Chính phủ xem xét quyết định việc áp dụng cơ chế bảo đảm cân đối ngoại tệ trên cơ sở chính sách quản lý ngoại hối, khả năng cân đối ngoại tệ trong từng thời kỳ.

Download pdf version