BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2021 – QUY ĐỊNH MỚI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CHẾ XUẤT

Phát hành tháng 04 năm 2021

Nguyễn Thị Ngân
Trợ lý Pháp lý

Nghị định 18/2021/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định 134/2016/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ có hiệu lực vào ngày 25/4/2021. Điểm nổi bật của Nghị định mới là quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục đăng ký, cơ chế quản lý, giám sát các doanh nghiệp chế xuất (“DNCX”). Thủ tục đăng ký để áp dụng cơ chế chế xuất của doanh nghiệp được đơn giản hóa và thống nhất quy trình giữa các cơ quan quản lý là cơ quan cấp phép đầu tư (Sở KHĐT hoặc Ban QL KCN) và cơ quan hải quan. Cơ quan cấp phép phê chuẩn đăng ký loại hình DNCX dựa trên bản cam kết đáp ứng điều kiện của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sau đó sẽ có một khoảng thời gian mở là 1 năm kể từ ngày bắt đầu đi vào hoạt động để hoàn thành cơ sở hạ tầng đáp ứng các điều kiện đối với DNCX.

1. Điu kin kim tra, giám sát hi quan đối vi DNCX

Điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan đối với DNCX bao gồm:

a) Có hàng rào cứng ngăn cách với khu vực bên ngoài; có cổng/cửa ra, vào đảm bảo việc đưa hàng hóa ra, vào doanh nghiệp chế xuất chỉ qua cổng/cửa.

b) Có hệ thống ca-mê-ra quan sát được các vị trí tại cổng/cửa ra, vào và các vị trí lưu giữ hàng hóa ở tất cả các thời điểm trong ngày (24/24 giờ, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ); dữ liệu hình ảnh ca-mê-ra được kết nối trực tuyến với cơ quan hải quan quản lý doanh nghiệp và được lưu giữ tại doanh nghiệp chế xuất tối thiểu 12 tháng.

c) Có phần mềm quản lý hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế của doanh nghiệp chế xuất để báo cáo quyết toán nhập- xuất- tồn về tình hình sử dụng hàng hóa nhập khẩu theo quy định pháp luật về hải quan.

2. Kim tra thc tế điu kin kim tra, giám sát hi quan

Việc kiểm tra thực tế điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan theo Nghị định 18 sẽ được áp dụng đối với DNCX đăng ký theo quy định mới và các DNCX đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trước ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành và đang trong quá trình hoạt động, bao gồm cả các doanh nghiệp chế xuất đã được cơ quan hải quan xác nhận về điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan trước ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành.

Tất cả các DNCX đang trong quá trình hoạt động có thời hạn tối đa không quá 01 năm kể từ ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành (25/4/2022) phải hoàn thiện các điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan và đăng ký để Chi cục Hải quan nơi quản lý doanh nghiệp chế xuất hoàn thành kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan và ra văn bản xác nhận đủ điều kiện cho doanh nghiệp chế xuất.

Quá thời hạn 01 năm kể từ ngày Nghị định 18 có hiệu lực thi hành, DNCX (i) không thực hiện thông báo; hoặc (ii) không đáp ứng các điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan thì không được áp dụng chính sách thuế đối với khu phi thuế quan kể từ ngày quá thời hạn 01 năm nêu trên. Khi đó, DNCX sẽ phải trả lại các khoản thuế chưa đóng do được hưởng ưu đãi của DNCX.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 02, 2021 – Những điểm mới của Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP)

Vol 2 phát hành 02/2021

 

Nguyễn Thị Ngân
Trợ lý Pháp lý

Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) đã được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2020 và sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2021. Luật PPP bao gồm 11 chương và 101 điều, được soạn thảo để thu hút nhiều nguồn lực hơn từ khu vực tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, “PPP vì con người” (people-first-PPP) như khuyến cáo của Liên Hợp Quốc. Luật PPP có nhiều điểm mới nổi bật, làm rõ một số quy định chưa cụ thể của Nghị định 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Nghị định 63), tích hợp các quy định liên quan từ Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công,… tạo ra hành lang pháp lý mạnh mẽ hơn cho việc triển khai các dự án PPP.

1. Giảm số lượng lĩnh vực đầu tư

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư quy định 5 lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP, ít hơn so với 9 lĩnh vực được quy định tại Nghị định 63. Năm lĩnh vực bao gồm (i) Giao thông vận tải (ii) Lưới điện, nhà máy điện, trừ nhà máy thủy điện và các trường hợp Nhà nước độc quyền theo quy định của Luật Điện lực (iii) Thủy lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải (iv) Y tế; giáo dục – đào tạo (v) Hạ tầng công nghệ thông tin.

Trong đó, quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án thuộc lĩnh vực Y tế; giáo dục – đào tạo không thấp hơn 100 tỷ đồng và quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của các dự án còn lại không thấp hơn 200 tỷ đồng, trường hợp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư thì không thấp hơn 100 tỷ đồng.

2. Quy định mi v Hp đồng d án PPP

Phân loi hp đồng d án (Điều 45 Luật PPP)

Hợp đồng dự án PPP gồm 2 nhóm chính (i) Nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế thu phí trực tiếp từ người sử dụng hoặc tổ chức bao tiêu sản phẩm, dịch vụ công, bao gồm: Hợp đồng BOT (build-operate-transfer); Hợp đồng BTO (build-transfer-operate); Hợp đồng BOO (build-own-operate); Hợp đồng O&M (operate-maintain); (ii) Nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế Nhà nước thanh toán trên cơ sở chất lượng sản phẩm, dịch vụ công, bao gồm: Hợp đồng BTL (build-transfer-lease) và  BLT (build-lease-transfer). Ngoài ra, các bên có thể ký kết hợp đồng theo hình thức hỗn hợp kết hợp giữa các loại hợp đồng trên.

Loi b hình thc hp đồng BT (build-transfer)

Hình thức hợp đồng BT trong Nghị định 63 đã bị loại bỏ khi xét đến các hệ lụy và bản chất không phù hợp với nguyên tắc hợp tác công tư.

Pháp lut Điu chnh hp đồng là lut Vit Nam

Khác với quy định tại Nghị định 63 cho phép các bên ký kết có thể thỏa thuận việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh hợp đồng dự án và các hợp đồng, thỏa thuận khác có liên quan theo quy định của Bộ luật dân sự ( Điều 46 Nghị định 63), Điều 55 Luật PPP quy định hợp đồng dự án PPP và các phụ lục hợp đồng, các văn bản có liên quan khác được ký kết giữa cơ quan nhà nước Việt Nam với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam, đối với những vấn đề pháp luật Việt Nam không có quy định, các bên có thể thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng dự án PPP trên cơ sở không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

3. Quy định v Hi đồng thm định d án PPP

Luật PPP quy định cụ thể về nguyên tắc thành lập và cơ chế hoạt động của hội đồng thẩm định dự án PPP. Phụ thuộc vào cấp quyết định chủ trương đầu tư, việc thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi sẽ do hội đồng thẩm định nhà nước; Hội đồng thẩm định liên ngành hoặc Hội đồng thẩm định cấp cơ sở. (Điều 6 Luật PPP)

4. Quy định v vn nhà nước tham gia thc hin d án PPP

Theo Điều 69.2 Luật PPP, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án. Luật cũng quy định chi tiết mục đích sử dụng vốn nhà nước trong các dự án PPP. Khi chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng nguồn vốn nhà nước trong các dự án PPP, quy định về mục đích sử dụng của nguồn vốn nhà nước rất hạn chế, chỉ giới hạn ở các mục đích sau, đây có thể là một cản trở cho việc thực hiện các dự án PPP sau này:

  1. Hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP;
  2. Thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công;
  3. Chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công hình tạm;
  4. Chi trả phần giảm doanh thu;
  5. Chi phí của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng, đơn vị chuẩn bị dự án PPP, bên mời thầu để thực hiện các hoạt động thuộc nhiệm vụ của mình quy định tại Điều 11 của Luật này;
  6. Chi phí của Hội đồng thẩm định dự án PPP, đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định dự án PPP.

5. Tích hp quy định v quy trình la chn nhà đầu tư

Quy trình lựa chọn nhà đầu tư được quy định trong đấu thầu lần đầu tiên được tích hợp trong các quy định của luật PPP thay vì được dẫn chiếu đến Luật Đấu thầu như trước đây. Cụ thể, việc lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo quy trình sau đây (Điều 28.1 Luật PPP):

  1. Lựa chọn danh sách ngắn (nếu áp dụng);
  2. Chuẩn bị lựa chọn nhà đầu tư;
  3. Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư;
  4. Đánh giá hồ sơ dự thầu;
  5. Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà đầu tư;
  6. Đàm phán, hoàn thiện, ký kết hợp đồng dự án PPP, công khai thông tin hợp đồng.

6. Đảm bo d thu

Căn cứ vào quy mô và tính chất của từng dự án, giá trị bảo đảm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu lựa chọn nhà đầu tư theo mức xác định từ 0,5% đến 1,5% tổng mức đầu tư của dự án. Bảo đảm dự thầu không được hoàn trả trong các trường hợp Nhà đầu tư rút hồ sơ dự thầu trong thời gian hồ sơ dự thầu còn hiệu lực hoặc Nhà đầu tư vi phạm pháp luật về đấu thầu dẫn đến phải hủy thầu hoặc Nhà đầu tư không tiến hành hoặc từ chối tiến hành đàm phán, hoàn thiện hợp đồng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu hoặc đã đàm phán, hoàn thiện hợp đồng nhưng từ chối ký kết hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc Doanh nghiệp dự án PPP do nhà đầu tư thành lập không thực hiện bảo đảm thực hiện hợp đồng theo quy định. (Điều 33 Luật PPP)

 7. Các cơ chế bo đảm ca Nhà nước

 Cơ chế chia s phn tăng, gim doanh thu

Theo quy định tại Điều 82 Luật PPP, khi doanh thu thực tế đạt cao hơn 125% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chia sẻ với Nhà nước 50% phần chênh lệch giữa doanh thu thực tế và mức 125% doanh thu trong phương án tài chính. Ngược lại, đối với dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BOO, trong trường hợp quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan thay đổi làm doanh thu thực tế đạt thấp hơn 75% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP thì Nhà nước chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP 50% phần chênh lệch giữa mức 75% doanh thu trong phương án tài chính và doanh thu thực tế.

Việc chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu này của Nhà nước điều được áp dụng sau khi đã điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công, điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án PPP và được kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán phần tăng/giảm doanh thu.

 Cơ chế đảm bo cân đối ngoi t đối vi d án PPP

Theo quy định tại Điều 81 Luật PPP, chỉ dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ mới được Chính phủ xem xét quyết định việc áp dụng cơ chế bảo đảm cân đối ngoại tệ trên cơ sở chính sách quản lý ngoại hối, khả năng cân đối ngoại tệ trong từng thời kỳ.

Download pdf version

Asia Business Law Journal chọn 100 luật sư hàng đầu tại Việt Nam

29/01/2021

Công ty Luật bizconsult có 3 luật sư là ông Nguyễn Anh Tuấn, ông Nguyễn Đăng Việt và ông Lê Hồng Phong thuộc Top 100 Luật sư hàng đầu Việt Nam 2020 (Vietnam’s top 100 lawyers 2020 hay The A-List 2020) theo lựa chọn của Asia Business Law Journal.

Danh sách 100 luật sư hàng đầu Việt Nam (https://law.asia/asia-business-law-journal/lawyers/vietnam-lawyers/) là kết quả khảo sát chuyên sâu được thực hiện bởi Asia Business Law Journal. Các đề cử được đưa ra bởi các chuyên gia, chủ yếu là luật sư nội bộ (in-house counsels) và chuyên viên pháp chế tại các doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế bao gồm Abbott, Agile Counsel, Bayer Group, Berjaya Corporation, Climate Fund Managers, Dai-ichi Life, EY, GlaxoSmithKline, Grant Thornton,v.v.

Cả ba Luật sư của bizconsult đều là những luật sư với trình độ chuyên nghiệp cao, kinh nghiệm nghiệm hành nghề lâu năm, được đánh giá cao nhờ những tư vấn toàn diện và sâu sắc giúp doanh nghiệp phát triển, bảo vệ tối đa quyền lợi của khách hàng. Theo khảo sát này Luật sư Lê Hồng Phong được nhận xét là “một luật sư M&A tận tâm và nhạy bén”.

Chúng tôi cảm ơn Asia Business Law Journal đã thực hiện khảo sát mang tính sâu rộng này.

Chúng tôi cảm ơn và trân trọng các đánh giá tích cực và đề cử dành cho luật sư của chúng tôi từ phía quý khách hàng tham gia khảo sát, thể hiện sự tin tưởng của quý khách hàng đối với các luật sư và dịch vụ của bizconsult.

Breakthroughs in Vietnam’s securities market

Đăng ngày 19/11/2020.

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian- Mena Counsel”

Since the first promulgation of the law on securities in 2006, Vietnam’s securities market has experienced dramatical growth (roughly twentyfold in market capitalisation). After three rounds of amendments to and supplementation of the law, on November 26, 2019, the National Assembly approved the new law on securities No. 54/2019/QH14 coming into effect on January 1, 2021 (“Law 2019”). Significant changes brought in by the new law promise to create a relevant legal framework and strong impetus to enhance market development. This article reviews some prominent issues.

Securities offering

Currently, conditions on public offerings are specifically provided for stocks, bonds and fund certificates regardless the nature, size and influence of the offering. The Law 2019 improves such provisions by distinguishing conditions applicable for initial public offerings and secondary public offerings of stocks, conditions for offering of non-convertible bonds and convertible bonds and conditions for offerings of fund certificates. Furthermore, new regulations seem to limit public offerings to well-performing, large companies and pay more attention to minority investors’ protection. Of particular note: for eligible IPO issuers, the threshold for paid-up charter increases from 10 billion VND to 30 billion VND; profitable performance history extends from one years to two years; issuers subject to criminal prosecution or having been convicted of any one of the crimes of violation of economic management order are prohibited; and it is required that at least 15 percent of the voting shares to be subscribed to more than 100 minority shareholders.

For private placements, the new law differentiates conditions applicable for the private placement of bonds and those applicable for other securities (stocks, convertible bonds and bonds with warrants). Only professional investors or strategic investors are allowed to apply in private placement. Professional investors are defined more broadly to comprise corporates with paid-in capital of more than 100 billion VND, listed companies, companies registered in the securities trading system, securities practicing certified individuals, individuals possessing a portfolio of at least 2 billion VND or having paid personal income tax in the most recent year of at least 1 billion VND besides other traditional financial institutions. The new law also regulates a private placement lock-up period to be three years for strategical investors and one year for professional investors.

Public companies

Law 2019 alters the criteria for public company classification. Paid-in charter capital of public companies increases to 30 billion VND (the current criteria is 10 billion VND) and at least 10 percent of voting shares are to be held by at least 100 minority shareholders. Companies successfully completing an IPO by registration with the State Securities Committee (“SSC”) are also classified as a public company.

Public companies shall comply with various remarkable regulations. After a successful public offering, they are obliged to register for trading on the unlisted securities trading system for unlisted securities. Share repurchase by a public company shall satisfy a number of conditions including having sufficient funds from specific sources and assigning a securities company to undertake the transaction. Numerous aspects relating to the administration of public companies are also addressed in the new law, namely shareholders’ rights and obligations, shareholder congress convention, the board of management’s structure and its rights and obligations, the nomination of members of board of management, principles for the prevention of conflict of interest, and information transparency.

Securities trading market

Under the new law, the securities market is organised and operated solely by the Vietnam Stock Exchange (“VSE”), a corporate 50 percent and more hold by the State and its subsidiaries. Another important new player in the market is Vietnam Securities Depository and Clearing Corporation (“VSD”), replacing the Securities Depository Center, which will be in charge of registration, depository, clearing and supporting services for securities transactions. Like VSE, VSD is also owned by the State for more than 50 percent of their voting shares and under the supervision of the SSC.

Other significant changes

Depository receipts: this term is defined as securities issued on the basis of securities of an organisation legally established in Vietnam. There is also a term of non-voting depository receipts under the new law on enterprise 2020. This new derivative product is designed with the aim to open up foreign room without loosening restrictions on foreign control over local companies.

Clearing bank: there currently exist three clearing banks in the market, SBV for treasury bonds, BIDV for common securities and Vietinbank for derivatives. The new law sets conditions for new players wishing to enter this niche market. Most notable conditions include having charter capital of more than 10 trillion VND, two years of profitable operation, capital adequacy ratios satisfaction and other requirements on technical infrastructure.

Harmonisation with the law on enterprise: Securities companies and fund management companies after obtaining an operation license from the SSC shall apply for an enterprise registration certificate in accordance with the law on enterprise.

Foreign room applicable for securities companies, fund management companies is opened to 100 percent for foreign institutions operating in banking, securities, insurance industries and originated from countries signing bilateral agreement with SSC. For other foreign organisations and individuals, the room is set to 49 percent.

https://www.inhousecommunity.com/article/breakthroughs-vietnams-securities-market/

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 10, 2020 – Quy định mới về cơ chế phối hợp liên thông trong đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh Nghiệp mới tại Việt Nam

Vol 1 phát hành 10/2020

Hà Thị Hải
Luật sư Thành viên

Phan Văn Huy
Trợ lý Luật sư

Nghị định số 122/2020/NĐ-CP về phối hợp, liên thông thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, khai trình việc sử dụng lao động, cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, đăng ký sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp vừa được Chính phủ ban hành ngày 15/10/2020 (“Nghị định 122”) với những nội dung đáng chú ý dưới đây:

1. Cơ chế phi hp, liên thông quy định ti Ngh định 122

Nghị định 122 quy định cơ chế phối hợp, liên thông bốn thủ tục áp dụng cho doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện khi thành lập, bao gồm (i) Đăng ký thành lập doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, (ii) Khai trình việc sử dụng lao động, (iii) Cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, và (iv) Đăng ký sử dụng hóa đơn với cơ quan đầu mối tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả là cơ quan đăng ký kinh doanh.

Như vậy, khi thực hiện cơ chế phối hợp, liên thông, doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện sẽ không phải thực hiện thủ tục khai trình việc sử dụng lao động và đăng ký sử dụng hoá đơn tự in, hoá đơn đặt in. Ngoài ra, Nghị định 122 cũng quy định mã số doanh nghiệp, mã số chi nhánh, văn phòng đại diện được sử dụng làm mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội.

Mặc dù cơ chế phối hợp, liên thông của Nghị định 122 chỉ được áp dụng khi thành lập doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện nhưng vẫn góp phần tinh giản một số thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi và thúc đẩy các doanh nghiệp khởi nghiệp.

2. H sơ phi hp, liên thông quy định ti Ngh định 122

 Hồ sơ phối hợp, liên thông quy định tại Nghị định 122 được thực hiện theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và Nghị định về đăng ký doanh nghiệp, trong đó, (i) Mẫu Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp được quy định tại các Phụ lục I-1, I-2, I-3, I-4 và I-5 và (ii) Mẫu thông báo về việc đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện quy định tại Phụ lục II-11 ban hành kèm theo Nghị định 122 sẽ thay thế cho các mẫu tương ứng tại Phụ lục từ I-1 đến I-5 và Phụ lục II-11 ban hành kèm theo Thông tư số 02/2019/TT-BKHĐT.

So với các mẫu bị thay thế, các mẫu ban hành kèm theo Nghị định 122 cơ bản bổ sung thêm hai mục là (i) Đăng ký sử dụng hoá đơn (bao gồm các lựa chọn: Tự in hoá đơn, Đặt in hoá đơn, Sử dụng hoá đơn điện tử và Mua hoá đơn của cơ quan cơ quan thuế) và (ii) Thông tin về việc đóng bảo hiểm xã hội (lựa chọn một trong ba phương thức: Hàng tháng, 3 tháng 1 lần, 06 tháng một lần).

Nghị định số 122 có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2020.

Download pdf version

Vietnam: Remarkable changes in the new Law on Enterprises

Đăng ngày 27/10/2020.

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian- Mena Counsel”

By Trang Nguyen  – Associate | Attorney at Law

 

On June 17, 2020, the National Assembly officially passed a new Law on Enterprises (“New Law”) to replace the current Law on Enterprises. The New Law (effective from  January 1, 2021) is expected to make a breakthrough in improving the corporate governance, enhance the enterprise’s initiative and create favourable conditions for foreign-invested enterprises to operate in Vietnam.

Reduce business registration procedures

The New Law reducing a number of administrative procedures, including, among others, eliminating the procedure for reporting changes in the information of the enterprise’s manager and the procedure for notification of seal samples with the business registration office to post it publicly on National Business Registration Portal before using.

In addition, regarding the method of enterprise registration, apart from the direct registration method at the business registration authority, Article 26 of the New Law added two other registration methods, which are registration via postal service and registration through the electronic information network, with legal validity equivalent to a hard copy.

Supplemental provisions on the obligations of the legal representatives

The New Law requires the company’s charter to specify the quantity, managerial title and rights and obligations of each legal representative. In case the division of rights and obligations of each legal representative is not clearly specified in the charter, each legal representative of the enterprise will be considered a duly authorised representative of the enterprise before a third party and all the legal representatives are jointly liable for any damage caused to the enterprise in accordance with the laws.

Changing regulation on term of capital contribution with assets

The New Law introduces new regulation on the term for capital contribution with assets of members/ shareholders. In particular, the term for capital contribution of the members/ shareholders remain 90 days from the date of issuance of the Enterprise Registration Certificate, but for members/ shareholders contributing capital with assets, the time for transferring, importing assets contributed as capital, implementing administrative procedures to transfer the ownership of such assets will not be counted to ensure the feasibility of contributing capital with assets of such members/ shareholders.

Screenshot 2020-10-27 at 1.03.59 PM
Issuance of bonds

Under the New Law, limited liability companies and joint stock companies is allowed to issue bonds. Limited liability companies and joint stock companies that are not public companies shall carry out the procedures for a private offering of bonds according to the provisions of the New Law, while the private offering of bonds by public joint-stock companies, other organizations or the public offering of bonds will follow the law on securities. It is noted that only strategic investors and professional securities investors are entitled to buy, be transferred bonds via private placement.

Expanding rights and scope of shareholders

Rather than holding 10 percent or more of the total amount of ordinary shares for at least 06 consecutive months or a smaller percentage as stipulated in the charter, the New Law prescribed that a shareholder or group of shareholders will only need to own five percent or more of the total amount of ordinary shares or a smaller percentage as stipulated in the company’s charter without a minimum holding period to exercise their right of accessing information regarding the operation of the enterprise, except for documents related to trade secrets, business secrets.

However, the right to nominate members to the board of directors, board of supervisors still reserves for shareholders or groups of shareholders owning 10 percent or more of the total amount of ordinary shares, unless otherwise stipulated in the charter with a smaller ratio.

Non-voting depositary receipt

For the first time, the Non-Voting Depositary Receipt (NVDR) is recorded in the content of the enterprise law. It is considered one of the remarkable points of the New Law.

Essentially, NVDR enjoys same economic benefits and obligations as ordinary shares, with the exception of voting rights. It is expected that a subsidiary of the Ho Chi Minh City Stock Exchange (HOSE) will be established and purchase these ordinary shares from  companies, then issue NVDR’s to sell to investors in need. Detailed regulations shall be specified in the guiding decrees.

NVDR’s are expected to attract more indirect investment from foreign investors into companies with limited foreign ownership, but still ensures the target of state management as the investors owning NVDR’s do not have voting rights, and shall therefore  not interfere in the operations of companies.

The New Law also reforms certain provisions on converting private enterprises into limited liability companies, joint stock companies, partnerships and converting household-businesses into enterprises, etc.

https://www.inhousecommunity.com/article/vietnam-remarkable-changes-new-law-enterprises/?idU=1

Download PDF

THÔNG BÁO NGÀY TRỢ GIÚP PHÁP LÝ MIỄN PHÍ

24/09/2020

Công ty Luật TNHH bizconsult (sau đây gọi tắt là “bizconsult”) xin trân trọng thông báo về Ngày Trợ Giúp Pháp Lý miễn phí năm 2020.

Thực hiện nội dung tại Thông báo số 399/TB-ĐLSHN ngày 14/09/2020 của Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội về việc tổ chức Trợ giúp pháp lý miễn phí hưởng ứng ngày truyền thống Luật sư Việt Nam và ngày pháp luật năm 2020, bizconsult tổ chức Ngày Trợ Giúp Pháp Lý miễn phí cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực liên quan đến pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại, với thông tin cụ thể như sau:

Thời gian:

Từ 8h30 đến 12h30, thứ Năm ngày 08/10/2020.

Địa điểm:

Trụ sở Công ty Luật TNHH bizconsult, số 20 Trần Hưng Đạo, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Lĩnh vực thực hiện trợ giúp pháp lý:

Lao động; Bảo hiểm; Hôn nhân gia đình; Quy trình và thủ tục khởi kiện trong lĩnh vực dân sự (trừ vụ việc kinh doanh, thương mại) tại Tòa án nhân dân.

Liên hệ

Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ Ms. Trang (039.413.9468) hoặc Mr. Kiên (0978.952.461) để được hướng dẫn chi tiết.

Công ty Luật TNHH bizconsult mong muốn mang những kiến thức, trí tuệ, tâm huyết và sự hiểu biết pháp luật của mình để phục vụ cho cộng đồng xã hội, góp phần vào sự phát triển của Liên đoàn Luật sư Việt Nam nói chung và Đoàn luật sư TP Hà Nội nói riêng.

The Law on Investment 2020

Đăng ngày 10/08/2020.

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian – Mena Counsel”

The current economic situation in Vietnam has revealed various disadvantages and loopholes in the legal framework, especially under the backbone law on investment. Though, the Law on Investment 2014 (LOI 2014) has been in effect for six years, new regulations are needed to create a more transparent, favourable and sustainable investment environment. On June 17, 2020, the National Assembly of Vietnam adopted the Law on Investment (LOI 2020), which will take effect from January 1, 2021 with the following salient changes:

List of prohibited and conditional business lines

Debt collection services has been added to the list of prohibited business lines as numerous service providers have abused this business activity to extort properties or to manipulate in the black lending market, causing public and security disorder.

For the list of conditional business lines, the LOI 2020 removes 22 business lines that are deemed to have no direct impact on national defence and security, social morality and public health, or which are already controlled by technical regulations and standards. Most popular businesses no longer belonging to the conditional list include franchising, logistics services, commercial arbitration, debt trading services, shipping agency service, medical equipment inspection service and aesthetic plastic surgery services. In contrast, it supplements a number of business activities to the list including insurance auxiliary activities, fishing vessel registry, architectural services, piping water supply service, data centre services, electronic identification and authentication services, provision of payment service without using customers’ payment accounts, among others.

Concretise market access commitment to foreign investors

Market access commitments are now specifically addressed under the LOI 2020. In particular, the government must officially issue a list of business lines not open to foreign investors or which imposed conditions. Accordingly, foreign investors who wish to engage in business lines limited to foreign investors shall meet the conditions of: (i) foreign ownership room, (ii) statutory investment forms, (iii) scope of investment activities; (iv) capacity of foreign investors and business partners participating in investment activities and other regulatory conditions. For all other business activities, foreign investors are equal with domestic investors in all respects. New regulations on detailed list limited to foreign investors under LOI 2020 may improve the transparency and feasibility in applying Vietnam’s market opening commitment under the next-generation FTAs.

Favourable mechanism for innovative start-ups

The definition of innovative start-up investment project is given as a project implementing ideas based on the exploitation of intellectual property, technology, new business models and rapid growth potential. Such projects are entitled to investment incentives. Foreign investors who set up medium- and small-sized innovative start-ups are not required to submit investment project nor obtain an Investment Registration Certificate for the purpose of setting up enterprises.

Deemed foreign investors

Previously, the threshold to consider a foreign-invested economic organisation (EO) as a foreign investor was 51 percent or more of charter capital of target company held by (a) foreign investors; or (b) EO which 51percent or more of its charter capital is owned by foreign investors; or (c) foreign investors and EO stated in (b) jointly. Consequently, such EO must satisfy the investment conditions and comply with investment procedures applicable to foreign investors when participating in incorporation of another EO or acquiring interest in an existing EO or investing in the form of BCC. The LOI 2020 deceases this threshold to 50 percent to comply with controlling ratio under newly adopted revised Law on Enterprise.

Cases where M&A approval is required

The LOI 2020 specifies instances where foreign investors must obtain M&A approval before acquiring an ownership interest in the target company as follows:

  1. an increase of foreign ownership in the target company engaging in business lines included in the lists set limited to foreign investors;
  2. an increase of foreign ownership in the target company from under 50 percent to exceeding 50 percent of the charter capital;
  3. an increase of foreign ownership in the target company which already exceeds 50 percent of the charter capital; or
  4. the target company is using land located at sea-islands, borderlands and coastal areas and other areas having an effect on national security and defence.

The change is expected to overcome ambiguity of the provisions on cases requiring M&A Approval under the LOI 2014.

Mechanism for selecting investors for implementing investment project

To ensure the uniformity and consistency of the legal system, the LOI 2020 clarifies principles, respective conditions applied for each method of selection of investors for implementing land-use project, including: (i) auction for land use rights; (ii) bid for investor selection; (iii) approval of investor.

https://www.inhousecommunity.com/article/law-investment-2020/

Download pdf version

VIETNAM: RELEASE OF LONG-AWAITED GUIDANCE ON COMPETITION LAW

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian – Mena Counsel”

July 10, 2020

The long-waited guidance on the Competition Law — the Decree 35/2020/ND-CP (Decree 35) — was issued on March 24, 2020 with effect from May 15, 2020, and casts light on certain prominent provisions of the Competition Law, such as economic concentration.

Under the Competition Law, economic concentration includes, among other things, acquisition of a company to the extent of controlling or dominating the acquired company or its business line. Decree 35 now further defines “controlling or dominating” as:

  • holding up to 50 percent voting right shares, or 50 percent total assets related to any or all business line, of acquired company; or
  • having right to, directly or indirectly, appoint or remove majority of member(s) or chairman of the board, or chief executive officer, or amend the charter, or decide critical issues, of acquired company.

Under Decree 35, the thresholds that trigger mandatory pre-merger notification include:

  • involved party’s total assets in the Vietnam market exceeding VND3,000 billion in the preceding fiscal year;
  • involved party’s total turnover exceeding VND3,000 billion in the preceding fiscal year;
  • the value of the transaction exceeding VND1,000 billion (not applicable in case of transaction outside the territory of Vietnam); or
  • combined market share exceeding 20 percent in preceding fiscal year.

These thresholds are more stringent for transactions involving credit institutions, securities or insurance companies, in particular:

  • involved parties’ total assets in the Vietnam market exceeding VND15,000 billion;
  • involved credit institutions’ total assets exceeding 20 percent of the whole credit institution system;
  • turnover of involved insurance companies exceeding VND10,000 billion, or of involved securities companies exceeding VND3,000 billion;
  • involved credit institutions’ turnover exceeding 20 percent of the whole credit institution system;
  • value of transaction involving credit institution exceeding VND3,000 billion or 20 percent of credit institution system’s total charter capital in the preceding fiscal year; or
  • the combined market share exceeding 20 percent in preceding fiscal year.

Screenshot 2020-06-10 at 3.53.27 PM

After the 30 days upon the pre-merger notification filling, an economic concentration transaction may be implemented if it falls under either of below cases, among others:

  • the combined market share is below 20 percent;
  • the combined market share exceeds 20 percent but post-merger aggregate of square number of each involved parties’ market shares is less than 1,800;
  • the combined market share exceeds 20 percent, and post-merger aggregate of square number of each involved parties’ market shares exceeds 1,800, but the amplitude increase of the aggregate of square number of each involved parties’ market shares between pre-merger and post-merger is below 100; or
  • involved parties in relevant supply/manufacturing chain have 20 percent combined market share.

Otherwise, an economic concentration shall undergo an official review to determine whether it may cause significant competition-restraining impact and subsequently should be banned. The official review shall base on, among others, market share combination, threat to cause or reinforce market power, ability to increase ability for correlation or collusion, relationship between involved parties in the manufacturing and supply chain, competition advantage, ability to increase price or profit margin ratio.

In addition, Decree 35 also introduces various criteria in determining the significant competition-restraining impact on market of a cartel conduct, including, among others, development of market share of involved parties, barriers to market access or expansion, restriction on research, development and technological innovations, increase of costs and time for customers to purchase goods or services.

In respect of competition dispute settlement, Decree 35 gives further detail on requirements on evidence collection, usage and examination. Decree 35 further provides for procedure on implementing certain interim injunctions during competition investigation.

https://www.inhousecommunity.com/article/vietnam-release-long-awaited-guidance-competition-law/

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 06, 2020 – TÓM TẮT DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ THỬ NGHIỆM CÓ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CÔNG NGHỆ TÀI CHÍNH (FINTECH) TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

Đăng ngày 23/06/2020

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước ban hành Dự thảo Nghị định quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng để lấy ý kiến. Trong bối cảnh công nghệ tài chính phát triển nhanh chóng kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn, bản dự thảo có thể được coi là một trong những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng cho việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động Fintech tại Việt Nam.

1. Định nghĩa Cơ chế thử nghiệm công nghệ tài chính (Fintech)

Theo định nghĩa tại Dự thảo, Cơ chế thử nghiệm Fintech (sau đây gọi tắt là Cơ chế thử nghiệm) là một cơ chế pháp lý được thiết lập bởi Chính phủ trong đó cho phép các tổ chức tín dụng, công ty cung ứng giải pháp Fintech và tổ chức đổi mới sáng tạo khác được thực hiện thử nghiệm trực tiếp các sản phẩm, dịch vụ Fintech trong môi trường được kiểm soát và giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý có liên quan.

2. Đối tượng và các lĩnh vực được tham gia Cơ chế thử nghiệm

Ba nhóm đối tượng có liên quan tới hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng dự kiến được tham gia thử nghiệm bao gồm các tổ chức tín dụng, công ty Fintech/Công ty cung ứng giải pháp Fintech hợp tác với ngân hàng; Công ty Fintech/Công ty cung ứng giải pháp Fintech độc lập. Các lĩnh vực Fintech được tham gia Cơ chế thử nghiệm là thanh toán, tín dụng, cho vay ngang hàng (P2P Lending), hỗ trợ định danh khách hàng; giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API), các giải pháp ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo như Blockchain, các dịch vụ khác hỗ trợ hoạt động ngân hàng (chấm điểm tín dụng, tiết kiệm, huy động vốn…).

Giải pháp Fintech của các đối tượng xin tham gia thử nghiệm phải đáp ứng toàn bộ các tiêu chí:

  • Là giải pháp mà hoàn toàn chưa có hoặc một phần chưa có quy định pháp lý điều chỉnh;
  • Là giải pháp Fintech sáng tạo lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam hoặc giải pháp Fintech được ứng dụng cho dịch vụ mới, có tính sáng tạo cao góp phần đem mang lại lợi ích cho người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy mục tiêu mở rộng phổ cập tài chính;
  • Là giải pháp được thiết kế quản lý rủi ro tốt, không có hoặc ít có khả năng gây ra tác động xấu tới các tổ chức tài chính nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung; có phương án xử lý, khắc phục các rủi ro xảy ra trong quá trình thử nghiệm;
  • Là giải pháp đã được công ty cung ứng giải pháp hoặc tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp đánh giá phù hợp và chính xác chức năng, công dụng và tính hữu ích;
  • Là giải pháp có tính khả thi và tính thương mại cao, có kế hoạch cung ứng ra thị trường cụ thể sau khi hoàn thành thử nghiệm;
  • Là giải pháp không tiềm ẩn rủi ro gây bất ổn đến thị trường tài chính – ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

3. Phạm vi thử nghiệm

Thời gian thử nghiệm các giải pháp Fintech là 01-02 năm tùy từng giải pháp và lĩnh vực cụ thể, tính từ thời điểm được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận thử nghiệm. Tùy thuộc vào các giải pháp Fintech cụ thể, Ngân hàng Nhà nước sẽ thảo luận với tổ chức tham gia thử nghiệm để quyết định phạm vi cho hoạt động của các giải pháp bao gồm đồng thời 1 trong 3 yếu tố sau: Về địa lý, về hạn mức giao dịch và về số lượng khách hàng tham gia sử dụng dịch vụ.

4. Đăng kí tham gia Cơ chế thử nghiệm

Tổ chức tín dụng, công ty Fintech/công ty cung ứng giải pháp Fintech phải thực hiện việc đăng kí khi tham gia Cơ chế thử nghiệm, hồ sơ đăng kí bao gồm: (1) Đơn đăng kí tham gia cơ chế thử nghiệm Fintech; (2) Giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành; (3) Văn bản mô tả về Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành đối với Giải pháp Fintech đăng kí thử nghiệm; (4) Đề án mô tả Giải pháp Fintech.

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đầu mối tiếp nhận, thẩm định hồ sơ, tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận tham gia Cơ chế thử nghiệm.

5. Quy định về giám sát rủi ro, tổng kết đánh giá và xác nhận tốt nghiệp các tổ chức tham gia thử nghiệm

Kết thúc thời gian thử nghiệm, các tổ chức tham gia thử nghiệm phải xây dựng báo cáo tổng kết, bao gồm các thông tin: Sản phẩm đầu ra thử nghiệm, các chỉ số đánh giá thử nghiệm về thành công hay thất bại của giải pháp và kết quả thử nghiệm; báo cáo sự cố và giải quyết khiếu nại của khách hàng và bài học rút ra từ việc thử nghiệm. Ngân hàng Nhà nước căn cứ báo cáo tổng kết và quá trình giám sát trình Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý bao gồm dừng tham gia thử nghiệm; cấp giấy chứng nhận hoàn thành thử nghiệm hoặc gia hạn thử nghiệm. Việc được cấp giấy Chứng nhận hoàn thành thử nghiệm là căn cứ để các tổ chức triển khai chính thức ra thị trường. Đồng thời kết quả triển khai thử nghiệm dịch vụ cũng là căn cứ để các cơ quan nhà nước triển khai xây dựng hoàn thiện cơ sở pháp lý phù hợp với từng loại dịch vụ và công nghệ Fintech.

Download pdf version