BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 03, 2023 – QUY ĐỊNH MỚI VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG THEO THÔNG TƯ 11/2022/TT-NHNN

Phát hành 03/2023

Trần Công Quốc
Luật sư Thành viên

Nguyễn Thùy An
Luật sư Cộng sự

Ngày 30/09/2022, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 11/2022/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng (sau đây gọi là “Thông tư 11”). Thông tư 11 có hiệu lực kể từ ngày 01/04/2023, thay thế Thông tư 07/2015/TT-NHNN và Thông tư 13/2017/TT-NHNN về bảo lãnh ngân hàng (sau đây gọi chung là “Thông tư 07”). Dưới đây là một số điểm mới đáng chú ý của Thông tư 11.

1. Hoạt động bảo lãnh điện tử 

Theo quy định tại Điều 9 Thông tư 11, bên cạnh phương thức bảo lãnh bằng văn bản giấy, tổ chức tín dụng/chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể cung cấp bảo lãnh điện tử (sau đây gọi là “bảo lãnh điện tử”). Việc áp dụng bảo lãnh điện tử sẽ phụ thuộc vào thoả thuận giữa tổ chức tín dụng/chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng. Việc thực hiện bảo lãnh điện tử phải đảm bảo an ninh, an toàn, bảo vệ thông điệp dữ liệu và bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật về phòng chống rửa tiền, giao dịch điện tử, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Việc bổ sung quy định về bảo lãnh điện tử tại Thông tư 11 dựa trên nhu cầu thực tế của khách hàng và nhằm thực hiện các quy định của Luật các tổ chức tín dụng về hoạt động ngân hàng điện tử. Các vấn đề liên quan đến giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng điện tử và bảo lãnh điện tử cũng được quy định trong Nghị định 35/2007/NĐ-CP, Nghị định 130/2018/NĐ-CP, Quyết định 35/2006/QĐ-NHNN và các văn bản pháp luật khác.

Trường hợp thực hiện nhận biết và xác minh thông tin nhận biết khách hàng qua phương tiện điện tử thì giá trị mỗi cam kết bảo lãnh cho khách hàng cá nhân không được vượt quá 04 tỷ đồng Việt Nam và cho khách hàng tổ chức không được vượt quá 45 tỷ đồng Việt Nam, trừ các trường hợp sau:

  • Thông tin nhận biết khách hàng được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được xác thực điện tử thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ xác thực điện tử theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử;
  • Khách hàng gửi đề nghị cấp bảo lãnh bằng điện tử thông qua hệ thống SWIFT;
  • Thông tin khách hàng và nghĩa vụ được bảo lãnh được đối chiếu khớp đúng thông qua cổng thanh toán điện tử hải quan hoặc hệ thống mạng đấu thầu quốc gia;
  • Khách hàng sử dụng chữ ký số theo quy định của pháp luật khi đề nghị cấp bảo lãnh hoặc ký thoả thuận cấp bảo lãnh với tổ chức tín dụng/chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
  • Khách hàng là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

2. Bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai

Thông tư 11 làm rõ một số nội dung liên quan đến bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai như sau:

  • Theo Thông tư 11, hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai là thỏa thuận cấp bảo lãnh giữa ngân hàng thương mại với chủ đầu tư và các bên liên quan khác (nếu có) về việc ngân hàng thương mại chấp thuận bảo lãnh cho chủ đầu tư trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai. Ngân hàng thương mại sẽ phát hành thư bảo lãnh cho bên mua sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai.

Hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai được ký kết trước khi ký kết hợp đồng mua hoặc hoặc đồng cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai (sau đây gọi là “Hợp đồng mua” hoặc “Hợp đồng cho thuê mua”). Sau khi ký kết Hợp đồng mua hoặc Hợp đồng cho thuê mua, chủ đầu tư phải yêu cầu ngân hàng thương mại phát hành thư bảo lãnh cho bên mua.

  • Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia bảo lãnh

Thông tư 11 quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư, ngân hàng thương mại và bên mua trong quan hệ bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai, các quy định này góp phần bảo vệ bên mua khi yêu cầu bảo lãnh, ngoài các quyền và nghĩa vụ khác, bao gồm:

  • Ngân hàng thương mại có nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh và gửi thư bảo lãnh cho bên mua hoặc chủ đầu tư theo quy định tại Hợp đồng mua hoặc Hợp đồng thuê mua;
  • Chủ đầu tư có nghĩa vụ gửi thư bảo lãnh do ngân hàng thương mại phát hành cho bên mua sau khi nhận được từ ngân hàng thương mại;
  • Bên mua có quyền được nhận thư bảo lãnh do ngân hàng thương mại phát hành từ ngân hàng thương mại hoặc chủ đầu tư gửi đến trong thời hạn hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai có hiệu lực và trước thời hạn giao, nhận nhà dự kiến;
  • Khi chấm dứt hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai trước thời hạn, chậm nhất vào ngày làm việc tiếp theo, ngân hàng thương mại phải công bố trên trang thông tin điện tử và thông báo bằng văn bản cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có dự án của chủ đầu tư về việc chấm dứt hợp đồng bảo lãnh, trong đó nêu rõ nội dung ngân hàng thương mại không tiếp tục phát hành thư bảo lãnh cho bên mua ký Hợp đồng mua, Hợp đồng thuê mua nhà ở với chủ đầu tư sau thời điểm ngân hàng thương mại chấm dứt hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai với chủ đầu tư. Đối với các thư bảo lãnh đã phát hành cho bên mua trước đó, ngân hàng thương mại tiếp tục thực hiện cam kết cho đến khi nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt.

3. Các trường hợp doanh nghiệp không được cấp bảo lãnh cho nghĩa vụ thanh toán trái phiếu

Theo quy định tại Điều 11.2 Thông tư 11, tổ chức tín dụng/chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được bảo lãnh cho nghĩa vụ thanh toán trái phiếu được phát hành với mục đích cơ cấu lại khoản nợ, góp vốn, mua cổ phần hoặc tăng quy mô vốn hoạt động. Trong khi đó, hạn chế cấp bảo lãnh này tại Thông tư 07 chỉ áp dụng đối với 02 trường hợp là cơ cấu lại nợ và trái phiếu phát hành bởi công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng khác.

4. Sử dụng tiếng nước ngoài trong bảo lãnh

Trước đây, theo quy định tại Thông tư 07, thoả thuận cấp bảo lãnh/cam kết bảo lãnh chỉ được lập bằng tiếng nước ngoài trong trường hợp giao dịch bảo lãnh thuộc các trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật dân sự. Nay, Thông tư 11 bổ sung 02 trường hợp được sử dụng tiếng nước ngoài, bao gồm (i) trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh phát sinh khi thực hiện các dự án được tài trợ vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế và (ii) trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh phát sinh khi tham gia gói thầu quốc tế.

5. Quy định chuyển tiếp

Các thoả thuận cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh đã ký kết và có hiệu lực trước ngày Thông tư 11 có hiệu lực thi hành được tiếp tục thực hiện theo các thoả thuận, cam kết đã ký cho đến khi nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt. Việc sửa đổi, bổ sung các thoả thuận cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh đã ký kết nêu trên phải phù hợp với quy định tại Thông tư 11.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 01, 2023 – NGHỊ ĐỊNH SỐ 99/2022/NĐ-CP NGÀY 30 THÁNG 11 NĂM 2022 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ ĐĂNG KÝ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THAY THẾ CHO NGHỊ ĐỊNH SỐ 102/2017/NĐ-CP NGÀY 01 THÁNG 09 NĂM 2017

Phát hành 01/2023

Nguyễn Bích Vân
Thành viên

Hà Tuấn Việt
Luật sư Cộng sự

Các biện pháp bảo đảm luôn đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, hạn chế các tranh chấp phát sinh, nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật của các chủ thể tham gia vào giao dịch. Đồng thời, các biện pháp bảo đảm còn là công cụ góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này trong trường hợp đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm ra đời xuất phát từ nhu cầu công khai các giao dịch bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào giao dịch, các bên liên quan. Trong những năm gần đây, trước những yêu cầu từ thực tiễn, các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm ngày càng được hoàn thiện, tạo cơ sở vững chắc để các tổ chức, cá nhân có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn tín dụng, đảm bảo an toàn pháp lý trong các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại.

Ngày 30/11/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 99/2022/NĐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm để thay thế cho Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/09/2017 qua đó góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện, thống nhất pháp luật trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm.

Nghị định 99/2022/NĐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm chính thức có hiệu lực vào ngày 15/01/2023 và có những điểm mới đáng lưu ý như sau:

 1. Phạm vi điều chỉnh 

Phạm vi điều chỉnh của Nghị định 99/2022/NĐ-CP so với Nghị định 102/2017/NĐ-CP là mở rộng thêm nội dung điều chỉnh về việc đăng ký biện pháp bảo đảm, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng chứng khoán đã đăng ký tập trung tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.

Theo đó, đối với các vấn đề không được quy định trong pháp luật về chứng khoán thì việc đăng ký được thực hiện theo quy định liên quan đến đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản không phải là tàu bay, tàu biển được quy định trong Nghị định 99/2022/NĐ-CP.

2. Các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm

Nghị định 99/2022/NĐ-CP quy định có bốn trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tài sản bao gồm: (i) đăng ký thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan; (ii) đăng ký theo thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm hoặc theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, trừ cầm giữ tài sản; đăng ký thông báo xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ mà có nhiều bên cùng nhận bảo đảm hoặc trong trường hợp bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có thỏa thuận; (iii) đăng ký thay đổi nội dung đã được đăng ký; (iv) xóa đăng ký nội dung đã được đăng ký đối với trường hợp quy định tại các điểm trên.

Đây là điểm khác biệt thể hiện ở việc mở rộng về thể chế, phạm vi các biện pháp bảo đảm mà các chủ thể tham gia vào giao dịch có thể lựa chọn để đăng ký so với nội dung của Nghị định 102/2017/NĐ-CP trước đây quy định theo hướng phân loại khá cứng nhắc thành hai nhóm gồm nhóm các biện pháp bảo đảm bắt buộc phải đăng ký (thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp tài sản gắn liền với đất, thế chấp tàu bay, tàu biển) và nhóm các biện pháp bảo đảm được đăng ký khi có yêu cầu (thế chấp tài sản là động sản, thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai, bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua bán tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; mua bán tàu bay, tàu biển; mua bán tài sản là động sản khác có bảo lưu quyền sở hữu).

3. Nguyên tắc đăng ký, cung cấp thông tin

Với mục đích đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong việc đăng ký, cung cấp, trao đổi thông tin về biện pháp bảo đảm, tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể có yêu cầu đăng ký biện pháp bảo đảm, Nghị định 99/2022/NĐ-CP đã quy định nguyên tắc thông tin về biện pháp bảo đảm phải được công khai, được cung cấp theo yêu cầu, các thông tin được trao đổi theo quy định của pháp luật; thực hiện đúng thủ tục, thẩm quyền, thời hạn, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, không làm phát sinh thủ tục khác với quy định của Nghị định. Đặc biệt trong trường hợp vi phạm bất kỳ nội dung nào trong các nguyên tắc kể trên, Cơ quan đăng ký phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ngoài ra, Cơ quan đăng ký không phải chịu trách nhiệm về tên hợp đồng bảo đảm và nội dung thuộc quyền thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo đảm; các bên phải trung thực trong kê khai, cung cấp, trao đổi thông tin; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của thông tin được kê khai, được cung cấp, được trao đổi.

4. Hiệu lực của đăng ký

Để đảm bảo tính minh bạch về hiệu quả và hiệu lực của việc đăng ký, đồng thời tách bạch được giữa việc đăng ký biện pháp bảo đảm và việc đăng ký khác liên quan đến tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (sau đây gọi là “đăng ký khác”), Nghị định 99/2022/NĐ-CP có các quy định mới về hiệu lực của đăng ký như sau:

  • Quy định cụ thể chi tiết, làm rõ về thời điểm phát sinh, thời điểm chấm dứt của hiệu lực đăng ký biện pháp bảo đảm, đăng ký khác;
  • Hiệu lực của việc đăng ký biện pháp bảo đảm là căn cứ để xác định thời hạn có hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;
  • Hiệu lực của việc đăng ký khác chỉ là để thông báo, công khai thỏa thuận, cam kết trong giao dịch dân sự; không phải là căn cứ xác định hiệu lực của giao dịch dân sự, hiệu lực đối kháng với người thứ ba;
  • Tách bạch giữa hiệu lực của việc xóa đăng ký trong trường hợp biện pháp bảo đảm chấm dứt theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật với hủy đăng ký do hợp đồng bảo đảm bị tuyên vô hiệu theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án, Trọng tài hoặc biện pháp bảo đảm được đăng ký tại cơ quan đăng ký không có thẩm quyền.

5. Thẩm quyền của cơ quan đăng ký

Để đảm bảo tính phù hợp với quy định của pháp luật liên quan, đảm bảo sự minh bạch, thuận lợi về thẩm quyền đăng ký, quản lý nhà nước đối với việc đăng ký biện pháp bảo đảm, Nghị định 99/2022/NĐ-CP đã bổ sung thẩm quyền đăng ký của Tổng Công ty lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam đối với việc đăng ký liên quan đến chứng khoán đã được đăng ký tập trung theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Đồng thời, bên cạnh quy định thẩm quyền chung, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký, Nghị định 99/2022/NĐ-CP cũng quy định cụ thể các trường hợp đăng ký thuộc thẩm quyền riêng của từng cơ quan đăng ký, thể hiện cơ chế pháp lý về việc trao đổi thông tin giữa cơ quan đăng ký với cơ quan, người có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.

6. Về hồ sơ, thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin

Về hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin

Để đảm bảo sự minh bạch, thống nhất về hồ sơ đăng ký, tránh làm phát sinh những yêu cầu không phù hợp trong thực tiễn đăng ký, Nghi định 99/2022/NĐ-CP quy định cụ thể các nội dung sau:

  • Thông tin phải có trên Phiếu yêu cầu đăng ký; các Biểu mẫu là tài liệu, giấy tờ thuộc thành phần hồ sơ; chữ ký, con dấu trong đăng ký; ngôn ngữ sử dụng trong đăng ký; việc mô tả thông tin về tài sản bảo đảm trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ: động sản không phải là tàu bay, tàu biển, chứng khoán đã được đăng ký tập trung;
  • Thành phần hồ sơ đăng ký đối với trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm có tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở; dự án đầu tư xây dựng công trình không phải là nhà ở; tài sản hình thành trong tương lai; tài sản là cây hằng năm, công trình tạm; tài sản là dự án đầu tư nông nghiệp, dự án phát triển rừng, dự án trồng cây lâu năm, cây hằng năm, dự án khác có sử dụng đất, chuyển tiếp đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với đất sang đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất; hồ sơ đăng ký khác;
  • Cụ thể hóa thành phần hồ sơ đăng ký thay đổi đối với trường hợp mua bán quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác; hồ sơ xóa đăng ký đối với trường hợp tổ chức kinh tế không phải là tổ chức tín dụng nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; người yêu cầu xóa đăng ký không phải là bên nhận bảo đảm, như: Bên bảo đảm, Cơ quan thi hành án dân sự, Người mua tài sản bảo đảm bị xử lý, Người nhận chuyển giao quyền sở hữu tài sản bảo đảm.

Về thủ tục đăng ký

Nghị định 99/2022/NĐ-CP quy định thủ tục đăng ký theo hướng tiếp cận, quy định cụ thể các thủ tục chung, thủ tục riêng theo từng loại tài sản bảo đảm, cụ thể:

  • Để đảm bảo bao quát đầy đủ các trường hợp đăng ký, thuận tiện cho việc áp dụng, xác định thẩm quyền của cơ quan đăng ký, Nghị định không quy định chung các trường hợp đăng ký như trước đây mà thay vào đó đã cụ thể hóa các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm theo từng loại tài sản. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định cụ thể các trường hợp đăng ký khác cũng như thẩm quyền thực hiện việc đăng ký này.
  • Để đảm bảo tính minh bạch, hạn chế sự tùy tiện trong việc từ chối đăng ký và hạn chế rủi ro, phát sinh thêm chi phí cho người yêu cầu đăng ký, Nghị định quy định Cơ quan đăng ký chỉ được từ chối đăng ký khi có căn cứ được quy định cụ thể trong Nghị định. Bên cạnh đó, Nghị định đã cụ thể hóa một số trường hợp Văn phòng Đăng ký đất đai và Chi nhánh vẫn thực hiện việc đăng ký khi thông tin mà các bên thỏa thuận mô tả tài sản bảo đảm không phù hợp với thông tin trên Giấy chứng nhận hoặc thông tin được lưu trữ tại cơ quan có thẩm quyền.
  • Ngoài ra, Cơ quan đăng ký không được từ chối đăng ký vì lý do: tên hợp đồng bảo đảm, nội dung thỏa thuận về giá trị tài sản bảo đảm, nghĩa vụ được bảo đảm, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.
  • Với mục đích đảm bảo tính phù hợp về thẩm quyền yêu cầu đăng ký theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và pháp luật liên quan, Nghị định đã quy định về người yêu cầu đăng ký theo hướng tách bạch người có quyền yêu cầu đăng ký lần đầu với người có quyền yêu cầu trong đăng ký thay đổi và xóa đăng ký; quy định cụ thể thông tin về bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm, người đại diện trong đăng ký; quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu đăng ký.
  • Để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cũng như đảm bảo tính khả thi trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin, song song với việc tiếp tục quy định việc nộp hồ sơ đăng ký theo phương thức nộp hồ sơ qua môi trường điện tử và nộp hồ sơ đăng ký bằng bản giấy, Nghị định đã quy định cụ thể hơn về quy trình tiếp nhận, kiểm tra thành phần hồ sơ đăng ký của cơ quan đăng ký, trong đó bao gồm các nội dung chính như sau:
    • Tách bạch thời hạn giải quyết hồ sơ khi từ chối đăng ký với thời hạn giải quyết hồ sơ để thực hiện đăng ký;
    • Quy định về các trường hợp cơ quan đăng ký không thực hiện đăng ký do có sự kiện bất khả kháng trong việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết hồ sơ đăng ký và thời hạn giải quyết hồ sơ trong trường hợp này;
    • Quy định về việc thông báo cho người yêu cầu đăng ký để hướng dẫn hoàn thiện, bổ sung thành phần hồ sơ; việc gửi giấy tờ, tài liệu tới cơ quan có thẩm quyền để xác minh khi phát hiện có dấu hiệu giả mạo tài liệu và thời hạn giải quyết hồ sơ trong trường hợp này;
    • Quy định về phương thức trả kết quả đăng ký phù hợp với phương thức nộp hồ sơ đăng ký, giá trị pháp lý của kết quả đăng ký;
    • Quy định về cơ chế, quy trình thực hiện việc đăng ký trên môi trường điện tử.
  • Để đảm bảo tính chính xác của thông tin về biện pháp bảo đảm đã đăng ký, hạn chế các thủ tục đăng ký thay đổi không cần thiết, Nghị định tách biệt giữa các trường hợp bắt buộc phải đăng ký thay đổi với các trường hợp đăng ký thay đổi khi có yêu cầu; thực hiện xóa đăng ký đối với nội dung được đăng ký thay đổi trong trường hợp rút bớt tài sản bảo đảm; làm rõ hơn trách nhiệm của người yêu cầu đăng ký khi không thực hiện đăng ký đối với trường hợp phải đăng ký thay đổi.
  • Với mục đích đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao quát đầy đủ các tình huống phát sinh trong thực tiễn, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của chủ sở hữu tài sản, chủ thể khác liên quan, Nghị định quy định cụ thể các nội dung sau:
    • Các trường hợp xóa đăng ký để phù hợp với thực tiễn và phù hợp với thay đổi của quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;
    • Ghi nhận việc xóa đăng ký đối với tài sản được rút bớt đối với trường hợp đăng ký thay đổi do rút bớt tài sản bảo đảm; trường hợp xóa đăng ký một phần nội dung thì không làm thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực đăng ký của nội dung không bị xóa;
    • Quy định về trách nhiệm của người yêu cầu đăng ký trong trường hợp không thực hiện xóa đăng ký khi có căn cứ để việc đăng ký phải xóa;
    • Bổ sung quy định về xóa đăng ký đối với trường hợp đăng ký khác

Đánh giá

Qua thời gian áp dụng trên thực tiễn, Nghị định 102/2017/NĐ-CP đã bộc lộ hạn chế thể hiện qua việc chưa bao quát được hết hiệu quả, hiệu lực của việc đăng ký; từ chối đăng ký; thông tin về bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm; thông tin trên phiếu yêu cầu đăng ký; ngôn ngữ sử dụng, chữ ký, con dấu trong đăng ký; trả kết quả đăng ký; đăng ký thay đổi, xóa đăng ký; việc tách bạch giữa xóa đăng ký với hủy đăng ký do hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu; cơ chế chỉnh lý thông tin có sai sót; phương thức thanh toán phí đăng ký; nộp hồ sơ đăng ký trên môi trường điện tử; việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Với các quy định mới của Nghị định 99/2022/NĐ-CP, các quy trình đăng ký biện pháp bảo đảm đã được đổi mới, hoàn thiện và trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu, minh chứng của sự an toàn, minh bạch về tài sản, giao dịch. Qua đó, người dân và doanh nghiệp có thêm cơ sở pháp lý vững chắc để có thể tiếp cận được các nguồn vốn với chi phí thấp để phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các chủ thể cấp vốn cũng an tâm hơn khi việc cung ứng vốn cho thị trường có cơ chế pháp luật bảo vệ để thực hiện một cách an toàn, ổn định. Ngoài ra, các quy định mới của Nghị định 99/2022/NĐ-CP cũng góp phần giúp các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có được bằng chứng pháp lý chính xác, thuận tiện về biện pháp bảo đảm trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước hoặc trong trường hợp phải tiến hành giải quyết các vụ việc theo quy định của pháp luật.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 11, 2022 – NGHỊ ĐỊNH SỐ 65/2022/NĐ-CP NGÀY 16 THÁNG 9 NĂM 2022 CỦA CHÍNH PHỦ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 153/2020/NĐ-CP NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2020 QUY ĐỊNH VỀ CHÀO BÁN, GIAO DỊCH TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP RIÊNG LẺ TẠI THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC VÀ CHÀO BÁN TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ

Phát hành 11/2022

Lê Hồng Phong
Luật sư Thành viên

Lê Thị Tuyết Mai
Luật sư Cộng sự

Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế ban hành ngày 31/12/2020, hiệu lực thi hành ngày 01/01/2021. Sau 18 tháng thi hành, trước dấu hiệu tăng trưởng “nóng” kèm theo đó tiềm ẩn nhiều rủi ro, cơ quan quản lý đã liên tục phát ra những cảnh báo đối với các tổ chức phát hành và nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn có tình trạng cố tình vi phạm để chào bán thứ cấp cho nhà đầu tư cá nhân để mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ hoặc góp vốn thông qua hình thức hợp đồng hợp tác đầu tư với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo pháp luật dân sự. Việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp phát hành trái phiếu chưa nghiêm và tuân thủ hàng rào pháp lý, nhiều vụ việc vi phạm nghiêm trọng xảy ra.

Để phát triển bền vững thị trường trái phiếu nên Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã có các văn bản chỉ đạo về việc quản lý, đặc biệt là đẩy mạnh thanh tra hoạt động phát hành, đầu tư, cung cấp dịch vụ trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp[1].

Trước thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển nhanh và phát sinh nhiều rủi ro, Chính phủ đã ban hành hành lang pháp lý mới an toàn cho nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường minh bạch và nâng cao trách nhiệm giám sát của cơ quan nhà nước.

Những điểm mới đáng lưu ý của Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

1. Mục đích phát hành trái phiếu 

Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi quy định về mục đích phát hành trái phiếu nhằm tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành trong việc sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu đúng mục đích.

Theo đó, mục đích phát hành trái phiếu là để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, cơ cấu lại nợ của chính doanh nghiệp hoặc mục đích phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Doanh nghiệp phải nêu cụ thể mục đích phát hành tại phương án phát hành và công bố thông tin cho nhà đầu tư đăng ký mua trái phiếu. Việc sử dụng vốn huy động từ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp phải đảm bảo đúng mục đích theo phương án phát hành và nội dung công bố thông tin cho nhà đầu tư[2].

Nghị định 65/2022 cho phép các doanh nghiệp được phát hành trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu nợ. Đây là một trong những điểm trọng yếu theo hướng nới lỏng hơn giúp các doanh nghiệp với mục đích tái cơ cấu nợ (theo đúng quy định) vẫn có thể tiếp cận được với kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

2. Tăng mệnh giá chào bán trái phiếu trong nước lên 100 triệu đồng

Mệnh giá trái phiếu được sửa đổi tăng từ 100.000 đồng hoặc bội số của 100.000 đồng lên 100 triệu đồng hoặc bội số của 100 triệu đồng. Sự gia tăng này cũng giới hạn phạm vi của các nhà đầu tư đủ điều kiện và dường như được thiết kế để loại trừ các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Cụ thể, Nghị định 65/2022/NĐ-CP nêu rõ: “Trái phiếu chào bán tại thị trường trong nước, mệnh giá là một trăm triệu (100.000.000) đồng Việt Nam hoặc bội số của một trăm triệu (100.000.000) đồng Việt Nam”[3].

3. Đối tượng mua trái phiếu

Nghị định 65/2022/NĐ-CP cũng quy định cụ thể về nhà đầu tư mua trái phiếu. Theo đó, đối với trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng quyền: đối tượng mua trái phiếu là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật chứng khoán.

Việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 Luật Chứng khoán để mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ phải đảm bảo danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch do nhà đầu tư nắm giữ có giá trị tối thiểu 02 tỷ đồng được xác định bằng giá trị thị trường bình quân theo ngày của danh mục chứng khoán trong thời gian tối thiểu 180 ngày liền kề trước ngày xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không bao gồm giá trị vay giao dịch ký quỹ và giá trị chứng khoán thực hiện giao dịch mua bán lại. Việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại điểm này có giá trị trong vòng 03 tháng kể từ ngày được xác nhận.

Nghị định mới hướng dẫn về các yêu cầu đối với các nhà đầu tư đủ điều kiện, cũng như các tài liệu làm bằng chứng cho việc đủ điều kiện đó, theo đó khẳng định rõ ràng trách nhiệm của cả tổ chức phát hành và công ty chứng khoán trong việc xác định và xác nhận tư cách nhà đầu tư tham gia phát hành trái phiếu riêng lẻ.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP bổ sung trách nhiệm của nhà đầu tư mua trái phiếu “Thực hiện giao dịch trái phiếu theo quy định tại Điều 16 Giao dịch trái phiếu tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP; không được bán hoặc cùng góp vốn đầu tư trái phiếu với nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp dưới mọi hình thức. Việc huy động vốn và mua, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty quản lý quỹ thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành”[4].

Đối với trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu kèm chứng quyền: đối tượng mua trái phiếu là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, nhà đầu tư chiến lược, trong đó số lượng nhà đầu tư chiến lược phải đảm bảo dưới 100 nhà đầu tư[5].

4. Bổ sung nguyên tắc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ

Điều kiện phát hành trái phiếu tuân thủ quy định tại Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp. Nghị định bổ sung quy định về hồ sơ chào bán trái phiếu bao gồm: (i) kết quả xếp hạng tín nhiệm theo các trường hợp và lộ trình thực hiện như quy định đối với chào bán trái phiếu ra công chúng, từ 1/1/2023; (ii) hợp đồng ký kết với đại diện người sở hữu trái phiếu trong trường hợp chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân và (iii) xác nhận của ngân hàng thương mại về việc mở tài khoản nhận tiền mua trái phiếu.

Sau khi hoàn thành đợt chào bán, trái phiếu phải được (i) đăng ký và lưu ký tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) và (ii) đăng ký giao dịch với Sở Giao dịch Chứng khoán. Trước đây, không có hướng dẫn cụ thể về các yêu cầu này, trái phiếu phát hành riêng lẻ có thể được đăng ký với thành viên lưu ký của VSD. Những quy định mới này sẽ làm tăng giao dịch thứ cấp và tạo ra một thị trường thứ cấp minh bạch hơn.

Sở giao dịch trái phiếu sẽ cần được thiết lập trong vòng 9 tháng sau khi Nghị định 65/2022 ban hành. Hệ thống đăng ký, lưu ký trái phiếu của VSD và hệ thống giao dịch trái phiếu của Sở Giao dịch Chứng khoán sẽ đi vào hoạt động từ tháng 6/2023. Trong khi chờ thiết lập sở giao dịch trái phiếu, trái phiếu do tư nhân phát hành có thể tiếp tục được giao dịch theo Nghị định 153/2020.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP nêu rõ: Đối với trái phiếu đã phát hành tại thị trường trong nước, doanh nghiệp chỉ được thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu khi đáp ứng các quy định sau[6]:

a) Được cấp có thẩm quyền của doanh nghiệp phát hành thông qua;

b) Được số người sở hữu trái phiếu đại diện từ 65% tổng số trái phiếu cùng loại đang lưu hành trở lên chấp thuận.

Thông tin về việc thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu phải được doanh nghiệp phát hành công bố thông tin bất thường[7].

5. Người đại diện sở hữu trái phiếu

Nghị định bổ sung quy định về đại diện người sở hữu trái phiếu để tăng cường việc giám sát mục đích sử dụng vốn trái phiếu của doanh nghiệp phát hành cũng như tăng cường giám sát việc thực hiện các cam kết khác của doanh nghiệp phát hành.

Đại diện người sở hữu trái phiếu tăng cường việc giám sát mục đích sử dụng vốn trái phiếu của doanh nghiệp phát hành, cũng như tăng cường giám sát việc thực hiện các cam kết khác của doanh nghiệp phát hành.

Trường hợp chào bán trái phiếu cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân, hồ sơ chào bán trái phiếu phải bao gồm hợp đồng ký kết với Đại diện người sở hữu trái phiếu theo quy định tại khoản 7 Điều 14 Nghị định 65/2022/NĐ-CP và quy định của pháp Luật Chứng khoán[8].

Ngoài ra, đại diện người sở hữu trái phiếu thực hiện chế độ báo cáo cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, sở giao dịch chứng khoán định kỳ hàng quý, hàng năm và báo cáo trong trường hợp phát hiện tổ chức phát hành có hành vi vi phạm ảnh hưởng đến quyền lợi của người sở hữu trái phiếu[9].

6. Sửa đổi thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt chào bán trái phiếu riêng lẻ

Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt chào bán không vượt quá 90 ngày kể từ ngày công bố thông tin trước đợt chào bán. Tổng thời gian chào bán trái phiếu thành nhiều đợt tối đa không quá 12 tháng kể từ ngày phát hành của đợt chào bán đầu tiên.

Theo Nghị định 65/2022/NĐ-CP, thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt chào bán không vượt quá 30 ngày kể từ ngày công bố thông tin trước đợt chào bán. Tổng thời gian chào bán trái phiếu thành nhiều đợt tối đa không quá 06 tháng kể từ ngày phát hành của đợt chào bán đầu tiên.

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải ký hợp đồng với đơn vị tư vấn phát hành trái phiếu là công ty chứng khoán trong mọi trường hợp. Trước khi có Nghị định 65/2022, công ty phát hành trái phiếu là công ty chứng khoán được miễn tham gia tư vấn phát hành trái phiếu.

Tổ chức phát hành trái phiếu riêng lẻ phải được cơ quan xếp hạng tín nhiệm (1) xếp hạng tín nhiệm nếu tổng mệnh giá trái phiếu đã phát hành của tổ chức phát hành đó trong mỗi kỳ hạn 12 tháng trước ngày phát hành lớn hơn 500 tỷ đồng và 50% vốn chủ sở hữu được ghi nhận trên báo cáo tài chính mới nhất của nó; hoặc (2) tổng mệnh giá trái phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành đó tại thời điểm đăng ký phát hành lớn hơn 100% vốn chủ sở hữu được ghi trên báo cáo tài chính gần nhất. Trước Nghị định 65/2022, yêu cầu này chỉ áp dụng cho việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng.

Nghị định 65/2022 hiện yêu cầu đại lý phát hành trái phiếu (hoặc người bảo lãnh phát hành) xác nhận rằng công ty phát hành trái phiếu đã nhận được tiền thu được từ trái phiếu vào tài khoản của mình.

7. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức đấu thầu, bảo lãnh và đại lý phát hành

Nghị định mới quy định (i) chỉ các công ty chứng khoán được cung cấp dịch vụ đấu thầu, bảo lãnh, đại lý và (ii) Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ đại lý phát hành khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp phép theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán[10]. Các “tổ chức trung gian” này không được là các bên liên quan của tổ chức phát hành và phải ký hợp đồng cung cấp dịch vụ với doanh nghiệp phát hành, trong đó nêu rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên.

Nghị định mới cũng quy định thêm trách nhiệm của các tổ chức trung gian này trong việc cung cấp thông tin trung thực, chính xác về việc phát hành trái phiếu cho các nhà đầu tư và đảm bảo chỉ phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư đủ điều kiện. Đây là một bước đi rõ ràng nhằm thúc đẩy trách nhiệm hơn từ phía các tổ chức này.

8. Các trường hợp mua lại trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trước hạn[11]:

Đây là quy định hoàn toàn mới so với Nghị định 153/2020/NĐ-CP, theo đó Nghị định 65/2022/NĐ-CP yêu cầu trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành. Nghị định bổ sung quy định doanh nghiệp phải mua lại trái phiếu trước hạn bắt buộc khi vi phạm phương án phát hành (trong đó có phương án sử dụng vốn) hoặc vi phạm pháp luật; trước và sau khi phát hành phải có công bố thông tin về khả năng đảm bảo thanh toán, báo cáo kiểm toán tình hình tài chính và kiểm toán tình hình sử dụng vốn theo mục đích phát hành đã được công bố.

Các trường hợp mua lại trái phiếu trước hạn bao gồm:

  1. Mua lại trước hạn theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp phát hành và người sở hữu trái phiếu.
  2. Bắt buộc mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư khi:
  • Doanh nghiệp phát hành vi phạm pháp luật về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp theo quyết định của cấp có thẩm quyền mà vi phạm đó không thể khắc phục hoặc biện pháp khắc phục không được số người sở hữu trái phiếu đại diện từ 65% tổng số trái phiếu cùng loại đang lưu hành trở lên chấp thuận.
  • Doanh nghiệp phát hành vi phạm phương án phát hành trái phiếu mà vi phạm đó không thể khắc phục hoặc biện pháp khắc phục không được số người sở hữu trái phiếu đại diện từ 65% tổng số trái phiếu cùng loại đang lưu hành trở lên chấp thuận.
  • Các trường hợp khác được nêu cụ thể tại phương án phát hành trái phiếu quy định tại Điều 13 Nghị định 65/2022/NĐ-CP (nếu có).

Lưu ý: Trường hợp bắt buộc mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư không áp dụng đối với trường hợp trái phiếu bị thu hồi theo quyết định của cấp có thẩm quyền[12].

Đánh giá

Với việc ban hành quy định mới về phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, sẽ thúc đẩy việc hình thành các định chế đầu tư dài hạn chuyên nghiệp trên thị trường minh bạch và bền vững. Tăng cường công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong điều hành và quản lý giám sát thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu với thị trường tiền tệ, tín dụng ngân hàng và chủ động thông tin tuyền truyền, định hướng thị trường. Thiết lập thị trường giao dịch có tổ chức và hoàn thiện quy định về cơ chế quản lý, giám sát.

Những điều này thể hiện một bước quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu mà các chuyên gia trong ngành cho là còn thiếu.

Các chủ thể tham gia thị trường ngoài tìm hiểu về trái phiếu doanh nghiệp thì cần tuân thủ quy định của pháp luật trước và trong quá trình tham gia giao dịch. Các doanh nghiệp phát hành phải đảm bảo tính trung thực của hồ sơ chào bán trái phiếu, sử dụng vốn đúng mục đích, có trách nhiệm giải thích cho nhà đầu tư các thông tin liên quan đến phương án phát hành, các rủi ro pháp lý, rủi ro đầu tư, rủi ro sử dụng vốn, quyền, lợi ích và trách nhiệm pháp lý của các bên khi phát hành và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.

[1]                 Chỉ thị số 01/CT-BTC ngày 25 tháng 04 năm 2022 của Bộ Tài Chính

[2]                 Khoản 2 Điều 5 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[3]                 Điểm a khoản 4 Điều 6 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[4]                 Điểm đ khoản 2 Điều 8 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[5]                 Điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[6]                 Khoản 4 Điều 5 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[7]                 Điểm c khoản 1 Điều 22 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[8]                 Điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[9]                 Khoản 2 Điều 33 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[10]               Khoản 4 Điều 14 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[11]                Khoản 3 Điều 7 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

[12]                Khoản 4 Điều 7 Nghị định 65/2022/NĐ-CP

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 10, 2022 – Nghị định 53/2022: Một số điểm đáng chú ý khi thi hành Luật An ninh mạng.

Phát hành 10/2022

Nguyễn Trọng Nghĩa
Luật sư Thành viên

Lê Anh Kiên 
Luật sư Cộng sự

Ngày 12/06/2018, Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2019, tuy nhiên một số điều khoản chưa được quy định rõ ràng và có nhiều vướng mắc trong việc thi hành trên thực tế. Do đó, mới đây ngày 15/08/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2022/NĐ-CP (“Nghị định 53”) nhằm quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng.

Nghị định 53 có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2022 và có một số điểm chính đáng lưu ý như sau:

Lưu trữ dữ liệu

Việc lưu trữ dữ liệu được coi là điểm đáng lưu ý nhất của Nghị định 53. Theo đó, chủ thể phải thực hiện việc lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam là các doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thuộc một trong những lĩnh vực: Dịch vụ viễn thông; lưu trữ, chia sẻ dữ liệu trên không gian mạng; cung cấp tên miền quốc gia hoặc quốc tế cho người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam; thương mại điện tử; thanh toán trực tuyến; trung gian thanh toán; dịch vụ kết nối vận chuyển qua không gian mạng; mạng xã hội và truyền thông xã hội; trò chơi điện tử trên mạng; dịch vụ cung cấp, quản lý hoặc vận hành thông tin khác trên không gian mạng dưới dạng tin nhắn, cuộc gọi thoại, cuộc gọi video, thư điện tử, trò chuyện trực tuyến thì phải lưu trữ dữ liệu theo quy định và đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam trong trường hợp dịch vụ do doanh nghiệp nước ngoài cung cấp bị sử dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng đã được Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an thông báo và có yêu cầu phối hợp, ngăn chặn, điều tra, xử lý bằng văn bản nhưng không chấp hành, chấp hành không đầy đủ hoặc ngăn chặn, cản trở, vô hiệu hóa, làm mất tác dụng của biện pháp bảo vệ an ninh mạng do lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thực hiện. Thời gian đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam bắt đầu từ khi doanh nghiệp nước ngoài nhận được yêu cầu đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam đến khi doanh nghiệp nước ngoài không còn hoạt động tại Việt Nam hoặc dịch vụ được quy định không còn cung cấp tại Việt Nam.

Đối với doanh nghiệp trong nước, Khoản 2 Điều 26 Nghị định 53 quy định “Doanh nghiệp trong nước lưu trữ dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều này tại Việt Nam”. Nội dung này có thể được hiểu là toàn bộ doanh nghiệp trong nước đều có nghĩa vụ lưu trữ các loại dữ liệu theo quy định. Tuy nhiên, có thể có quan điểm khác cho rằng chỉ những doanh nghiệp trong nước “cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra” mới phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam (trích Khoản 3 Điều 26 Luật An ninh mạng 2018).

Loại dữ liệu cần lưu trữ

Theo quy định của Nghị định 53, loại dữ liệu mà doanh nghiệp phải lưu trữ tại Việt Nam bao gồm (i) Dữ liệu về thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam; (ii) Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra: Tên tài khoản sử dụng dịch vụ, thời gian sử dụng dịch vụ, thông tin thẻ tín dụng, địa chỉ thư điện tử, địa chỉ mạng (IP) đăng nhập, đăng xuất gần nhất, số điện thoại đăng ký được gắn với tài khoản hoặc dữ liệu và (iii) Dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam: bạn bè, nhóm mà người sử dụng kết nối hoặc tương tác.

Hình thức và thời gian lưu trữ dữ liệu

Hình thức lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam do doanh nghiệp quyết định.

Về thời gian lưu trữ dữ liệu, Nghị định 53 quy định: “Thời gian lưu trữ dữ liệu theo quy định tại Điều 26 Nghị định này bắt đầu từ khi doanh nghiệp nhận được yêu cầu lưu trữ dữ liệu đến khi kết thúc yêu cầu. Thời gian lưu trữ tối thiểu là 24 tháng.”

Quy định này không chỉ rõ đối tượng áp dụng là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài, tuy nhiên, có thể hiểu quy định này chỉ áp dụng với doanh nghiệp nước ngoài do đây là đối tượng có nghĩa vụ lưu trữ dữ liệu khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với doanh nghiệp trong nước, việc lưu trữ dữ liệu có thể được hiểu là phải thực hiện trong suốt quá trình doanh nghiệp hoạt động, kể từ khi Nghị định 53 có hiệu lực.

Các nội dung khác

Ngoài nội dung quy định về lưu trữ dữ liệu, Nghị định 53 còn có các quy định quan trọng khác liên quan đến xác lập danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; điều kiện an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng; các hoạt động bảo vệ an ninh mạng trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị ở trung ương và địa phương./.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 09, 2022 – QUY ĐỊNH MỚI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ CÓ THƯỞNG DÀNH CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Phát hành 09/2022

Trịnh Hoàng Liên
Thành viên

Phan T.Lan Phương 
Trợ lý Pháp lý

Các quy định về hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài có một số thay đổi đáng kể sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2021 quy định về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (“Nghị định số 121”) thay thế Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013, Nghị định 175/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 02 năm 2017 và Nghị định 151/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2018 (sau đây gọi chung là “Nghị định 86”). Nghị định 121 có hiệu lực từ ngày 12 tháng 02 năm 2022, được hướng dẫn bởi Thông tư 39/2022/TT-BTC (“Thông tư 39”) ngày 24 tháng 6 năm 2022 và Thông tư 09/2022/TT-NHNN (“Thông tư 09”) ngày 12 tháng 7 năm 2022. Bài viết này điểm lại một số quy định thay đổi có ý nghĩa đáng kể đối với loại hình kinh doanh này.

1. Đối tượng được phép tham gia trò chơi điện tử có thưởng

Đối tượng được phép tham gia trò chơi điện tử có thưởng theo quy định mới được quy định chặt hơn so với Nghị định 86 trước đây, cụ thể, người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhập cảnh hợp pháp vào Việt Nam bằng hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp và còn thời hạn cư trú tại Việt Nam; có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và tự nguyện chấp hành Thể lệ trò chơi cũng như các quy định khác của Nghị định 121.

Theo đó, Nghị định 121 không cho phép các đối tượng người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam hoặc nhập cảnh hợp pháp nhưng đã hết thời gian cư trú mà không xuất cảnh theo quy định được tham gia trò chơi điện tử có thưởng.

2. Điều kiện và giấy phép kinh doanh

Về cơ bản, doanh nghiệp kinh doanh loại hình này vẫn phải có đủ hai giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng do Bộ Tài chính cấp và giấy phép thu chi ngoại tệ và hoạt động ngoại hối khác do Ngân hàng Nhà nước cấp trước khi đi vào hoạt động.

Điều kiện doanh nghiệp phải đáp ứng để được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng theo Nghị định 121 được xiết chặt hơn so với quy định cũ. Ngoài các quy định cơ bản giống như quy định tại Nghị định 86 như có cơ sở lưu trú du lịch đã được xếp hạng 5 sao; có khu vực để bố trí Điểm kinh doanh đáp ứng đủ các điều kiện quy định; có người quản lý, điều hành Điểm kinh doanh đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn (tốt nghiệp đại học và có kinh nghiệm quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng trên 3 năm), có phương án kinh doanh, Nghị định 121 đã xiết chặt điều kiện so với Nghị định 86 ở những điểm sau đây:

  • Nâng mức vốn điều lệ tối thiểu từ 200 tỷ đồng lên 500 tỷ đồng và yêu cầu năm tài chính liền kề trước năm doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh có lãi;
  • Tăng thời gian lưu trữ của thiết bị điện tử và hệ thống camera để theo dõi, giám sát thường xuyên toàn bộ hoạt động trong Điểm kinh doanh (24/24h) lên tối thiểu 180 ngày kể từ ngày ghi hình và đảm bảo hình ảnh rõ nét tại các vị trí sau: khu vực cửa ra, vào Điểm kinh doanh; khu vực bố trí các máy trò chơi điện tử có thưởng; khu vực thu ngân, kho quỹ kiểm đếm tiền mặt, đồng tiền quy ước và lưu giữ thiết bị đựng tiền mặt, đồng tiền quy ước. Quy định cũ chỉ chỉ yêu cầu thời gian lưu trữ 30 ngày đối với các khu vực này và 15 ngày đối với các khu vực khác.
  • Các máy trò chơi điện tử có thưởng mua, nhập khẩu để sử dụng phải là máy mới 100%, có thông số kỹ thuật do nhà sản xuất máy trò chơi điện tử có thưởng công bố và đã được tổ chức kiểm định độc lập hoạt động tại các nước G7 cấp chứng nhận kiểm định.
  •  Quy định chặt hơn về số lượng máy trò chơi điện tử được cấp phép. Tỷ lệ máy duy trì ở mức tối đa 1 máy trên 5 buồng lưu trú như quy định cũ nhưng chỉ tính trên số buồng lưu trú đã đi vào hoạt động.

3. Quản lý đồng tiền quy ước

Cơ chế phát hành và “đăng ký” đồng tiền quy ước theo mẫu mã, số lượng, chủng loại của đồng tiền quy ước của doanh nghiệp với Sở Tài chính và cơ quan thuế trước khi đưa vào kinh doanh và đăng ký lại những thông tin này khi có thay đổi đã được thay thế bằng cơ chế “thông báo” tới Sở Tài chính và cơ quan thuế làm cơ sở phát hành hóa đơn tính doanh thu của doanh nghiệp. Ngoài ra, Nghị định 121 cũng bãi bỏ các quy định về thông tin cơ bản mà đồng tiền quy ước của doanh nghiệp cần phải có, theo đó, đồng tiền quy ước chỉ cần đảm bảo có dấu và ký hiệu riêng để nhận dạng.

Với quy định mới này, Nghị định 121 đã đơn giản hóa điều kiện về hình thức, chất lượng của đồng tiền quy ước cũng như thủ tục để có thể áp dụng đồng tiền này tại doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng giảm được gánh nặng về việc xin cấp phép hoặc các chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền về việc sử dụng đồng tiền quy ước.

Việc thanh toán đồng tiền quy ước theo quy định tại Thông tư 09 không có sự khác biệt gì với các quy định cũ. Người chơi được thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản từ tài khoản ở nước ngoài hoặc tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép ở Việt Nam của người chơi vào tài khoản chuyên dùng ngoại tệ của doanh nghiệp hoặc chấp nhận thẻ tín dụng. Chúng tôi đánh giá những quy định này khá hạn chế xét đến sự phát triển của các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay.

4. Nới lỏng chi phí được hạch toán

Việc hạch toán chi phí theo quy định mới được nới lỏng hơn. Cụ thể, mức trần chi phí thuê quản lý trước đây bị giới hạn 4% doanh thu đã được bãi bỏ, doanh nghiệp được chủ động trong việc đàm phán chi phí thuê quản lý và hạch toán chi phí tính thuế.

Nghị định 121 và các văn bản hướng dẫn mới được đánh giá đảm bảo xiết chặt quản lý nhà nước đối với loại hình kinh doanh có điều kiện này nhưng vẫn tạo môi trường thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp sau khi đáp ứng đủ điều kiện.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 09, 2022 – NGHỊ ĐỊNH 25/2022: MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI VỀ DỊCH VỤ BƯU CHÍNH TẠI VIỆT NAM

Phát hành 09/ 2022

Hà Hải
Luật sư Thành viên

Phan Thị Minh 
Luật sư Cộng sự

Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2011/NĐ-CP ngày 17/06/2011 quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính (“Nghị định 47”), tốc độ phát triển của ngành dịch vụ bưu chính tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, doanh thu dịch vụ bưu chính tăng từ khoảng 4.135 tỷ đồng năm 2010 lên tới 36.950 tỷ đồng năm 2020, đóng góp vào khoảng 0,8% vào GDP quốc gia. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, Nghị định 47 đã bộc lộ một số nội dung không còn phù hợp với thực tế và chưa theo kịp xu thế phát triển của công nghệ hiện đại. Do vậy, ngày 12/04/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 47 (“Nghị định 25”) nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế nói trên. Nghị định 25 có hiệu lực vào ngày 01/06/2022.  Dưới đây là một số điểm mới đáng chú ý của Nghị định 25:

1. Bãi bỏ quy định về thẩm tra dự án

Trước đây, Nghị định 47 quy định “Dự án có vốn đầu tư nước ngoài có mức vốn dưới 15 tỷ đồng Việt Nam phải được thẩm tra nhưng không phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư” và “Dự án có vốn đầu tư nước ngoài có mức vốn từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên phải được thẩm tra trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư”. Tuy nhiên, hiện nay quy định này không còn phù hợp với Luật đầu tư 2020 và văn bản hướng dẫn thi hành. Mặt khác, quy định này còn mang tính chất phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh dịch vụ bưu chính tại Việt Nam. Do đó, Nghị định 25 đã bãi bỏ quy định này.

2. Bãi bỏ quy định về điều kiện tài chính của doanh nghiệp bưu chính

Nghị định 25 chính thức bãi bỏ quy định doanh nghiệp phải có mức vốn tối thiểu là 02 tỷ đồng Việt Nam đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính trong phạm vi nội tỉnh, liên tỉnh và mức vốn tối thiểu là 05 tỷ đồng Việt Nam đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế do quy định này không có hiệu quả về quản lý nhà nước và tạo rào cản gia nhập thị trường đối với doanh nghiệp.

3. Bổ sung quy định về thông báo, công khai giá cước dịch vụ bưu chính

Việc thông báo giá cước dịch vụ bưu chính không được quy định tại Nghị định 47 mà được quy định tại Điều 5 Thông tư 02/2012/TT-BTTTT ngày 15 tháng 03 năm 2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính. Theo quy định này, doanh nghiệp phải thông báo có cơ quan cấp phép bưu chính khi có thay đổi về giá cước dịch vụ bưu chính đang áp dụng và giá cước dịch vụ mới phát sinh trong vòng 30 ngày kể từ ngày giá cước mới có hiệu lực.

Nghị định 25 đã nâng cấp, hoàn thiện quy định về thông báo giá cước dịch vụ bưu chính từ Thông tư 02/2012/TT-BTTTT, trong đó thời hạn doanh nghiệp phải thông báo thay đổi giá cước hoặc áp dụng giá cước phát sinh giảm xuống còn 05 ngày làm việc kể từ ngày giá cước có hiệu lực. Việc thông báo có thể thực hiện qua hệ thống thông tin trực tuyến. Cơ quan cấp phép bưu chính có quyền sử dụng thông tin giá cước mà doanh nghiệp, tổ chức đã thông báo vào mục đích phân tích, tổng hợp, dự báo biến động giá cả thị trường và xây dựng cơ sở dữ liệu và có trách nhiệm giám sát, kiểm tra, thanh tra nội dung thông báo giá cước dịch vụ bưu chính theo quy định pháp luật.

Ngoài nghĩa vụ thông báo nêu trên, doanh nghiệp còn có nghĩa vụ công khai giá cước dịch vụ bưu chính kể từ thời điểm doanh nghiệp cung ứng dịch vụ dưới một hoặc một số hình thức như niêm yết tại điểm phục vụ, thông báo bằng văn bản, đăng tải trên trang thông tin điện tử hoặc các hình thức khác để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của mọi tổ chức, cá nhân. Giá cước dịch vụ bưu chính được công khai phải thống nhất với giá cước mà doanh nghiệp, tổ chức đã thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.

4. Bãi bỏ yêu cầu phân tích tính khả thi và lợi ích kinh tế – xã hội trong hồ sơ đề nghj cấp giấy phép bưu chính

Trước đây, Nghị định 47 yêu cầu doanh nghiệp xin cấp giấy phép bưu chính phải phân tích tính khả thi và lợi ích kinh tế – xã hội của phương án kinh doanh thông qua các chỉ tiêu về sản lượng, doanh thu, chi phí, số lượng lao động, thuế nộp ngân sách nhà nước, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư trong 03 năm tới kể từ năm đề nghị cấp phép trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, xem xét từ thực tiễn thẩm định hồ sơ cấp phép thì Bộ Thông tin và Truyền thông thấy rằng nội dung này có rất ít giá trị trong việc chứng minh tính khả thi của phương án kinh doanh, gây khó khăn, tốn kém cho doanh nghiệp, đồng thời quy định này có tính chất can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, Nghị định 25 đã bãi bỏ để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi tham gia đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính.

5. Giá trị pháp lý của chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi điện tử

Trong bối cảnh dịch vụ bưu chính công nghệ ngày càng phổ biến trên thị trường, Nghị định 25 lần đầu tiên đã bổ sung quy định công nhận giá trị pháp lý của chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi điện tử giữa doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính và người gửi có giá trị pháp lý như hợp đồng ký kết bằng văn bản giữa các bên.

6. Hồ sơ cấp phép bưu chính phải được nộp trực tuyến

Nghị định 25 yêu cầu hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phải được nộp qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến thay vì nộp bản giấy trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu chính đến cơ quan có thẩm quyền về bưu chính như trước đây. Hồ sơ phải nộp cũng được giảm bớt còn 01 bộ thay vì 03 bộ hồ sơ bản giấy (01 bộ gốc và 02 bộ sao) như trước đây. Quy định sửa đổi này phù hợp với bối cảnh các cơ quan nhà nước đang ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ công trực tuyến và liên thông, đồng bộ với cải cách thể chế và thủ tục hành chính trên các lĩnh vực như hiện nay.

Việc thông báo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính liên quan đến nội dung yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ hoặc từ chối hồ sơ sẽ được thực hiện bằng văn bản qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến. Kết quả giải quyết thủ tục cấp giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính được trả trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính công ích.

7. Bổ sung quy định về khuyến mại trong cung ứng dịch vụ bưu chính

Nghị định 25 quy định rằng mức giảm giá cước tối đa đối với dịch vụ bưu chính được khuyến mại bằng hình thức giảm giá không được vượt quá 50% giá cước gần nhất đã công khai, thông báo theo quy định. Đây là quy định hoàn toàn mới của Nghị định 25. Quy định này nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng quy định của pháp luật chung về khuyến mại để thực hiện “khuyến mại, giảm giá” kéo dài đối với nhóm đối tượng khách hàng lớn, dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp bưu chính khác.

8. Sửa đổi, bổ sung các nội dung phải thông báo khi có thay đổi

Theo Nghị định 25, doanh nghiệp được cấp Giấy phép bưu chính và/hoặc văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phải thực hiện thủ tục thông báo khi có thay đổi các nội dung sau:

  • Người đại diện theo pháp luật
  • Số điện thoại liên lạc của người đại diện theo pháp luật
  • Vốn điều lệ của doanh nghiệp
  • Giá cước dịch vụ bưu chính
  • Chỉ tiêu chất lượng dịch vụ bưu chính
  • Mẫu hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính;
  • Các quy định về khiếu nại, bồi thường thiệt hại liên quan đến dịch vụ bưu chính do doanh nghiệp cung cấp

Theo đó, Nghị định 25 đã quy định rõ hơn các nội dung mà doanh nghiệp được xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phải thông báo tới cơ quan cấp phép khi có thay đổi. Ngoài ra, so với quy định trước đây, Nghị định 25 đã bỏ yêu cầu thực hiện thông báo khi có thay đổi về địa chỉ trụ sở chính và số điện thoại liên hệ của doanh nghiệp.

9. Trách nhiệm lưu giữ thông tin, tài liệu của doanh nghiệp bưu chính

Nghị định 25 bổ sung trách nhiệm lưu trữ tài liệu và thông tin của doanh nghiệp bưu chính như sau: (i) Lưu trữ hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính và chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi tổi thiểu 5 năm; (ii) Lưu trữ thông tin về người gửi, người nhận (họ và tên, địa chỉ và số điện thoại) và thông tin liên quan đến bưu gửi (nội dung gói, kiện hàng hóa, giấy tờ đi kèm khi vận chuyển theo quy định của pháp luật) tối thiểu 01 năm kể từ ngày được cung cấp.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2022 – NGHỊ ĐỊNH SỐ 15/2022/NĐ-CP NGÀY 28 THÁNG 01 NĂM 2022 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHÍNH SÁCH MIỄN, GIẢM THUẾ THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 43/2022/QH15 NGÀY 11 THÁNG 01 NĂM 2022 CỦA QUỐC HỘI

Phát hành 04/2022 

Nguyễn T. Thu Trang
Luật sư Cộng sự

Nguyễn T. Liên Liên
Trợ lý Pháp lý

Ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội (“Nghị quyết 43”), ngày 28 tháng 01 năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2022/NĐ-CP quy định chính sách miễn, giảm thuế (“Nghị định 15”) theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội để triển khai chính sách miễn, giảm thuế trong chính sách tài khóa của Quốc hội.

Gim Thuế Giá Tr Gia Tăng T Ngày 01 Tháng 2 Năm 2022 Đến Ngày 31 Tháng 12 Năm 2022

Để thuận tiện cho các tổ chức, cá nhân và cơ quan quản lý thuế, đảm bảo thống nhất áp dụng với các hệ thống pháp luật thuế chuyên ngành, Nghị định 15 quy định việc giảm thuế giá trị gia tăng (“GTGT”) đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% và đồng thời nêu rõ hàng hóa, dịch vụ không được áp dụng giảm thuế GTGT, cụ thể bao gồm:

  • Viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại và sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất;
  • Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt;
  • Công nghệ thông tin theo pháp luật về công nghệ thông tin.

Việc giảm thuế giá trị gia tăng được áp dụng thống nhất tại tất cả các công đoạn bao gồm nhập khẩu, sản xuất, gia công, kinh doanh thương mại, trừ trường hợp đối với mặt hàng than, việc giảm thuế GTGT chỉ được áp dụng đối với khâu khai thác bán ra. Theo đó, mức giảm thuế GTGT được xác định theo phương pháp tính thuế của cơ sở kinh doanh và được áp dụng từ ngày 01 tháng 2 năm 2022 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, cụ thể bao gồm:

  • Trường hợp áp dụng phương pháp khấu trừ, cơ sở kinh doanh được áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 8% đối với hàng hóa, dịch vụ;
  • Trường hợp áp dụng phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu, cơ sở kinh doanh được giảm 20% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ.

Th Tc Gim Thuế GTGT

Để được áp dụng mức thuế GTGT, cơ sở kinh doanh phải thực hiện lập hóa đơn riêng cho hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng. Trong trường hợp không lập hóa đơn riêng, việc giảm thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Nghị định 15 sẽ không được áp dụng. Đối với các trường hợp cơ sở kinh doanh đã lập hóa đơn và đã kê khai theo mức thuế suất hoặc mức tỷ lệ % để tính thuế GTGT chưa được giảm trừ, người bán và người mua phải lập biên bản ghi rõ sai sót, và người bán lập và giao hóa đơn điều chỉnh cho người mua để được áp dụng mức giảm thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh thực hiện kê khai các hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng theo Tờ khai “giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết 43” cùng với Tờ khai thuế giá trị gia tăng.

 Gim tr chi phí tài tr, ng h hot động phòng, chng dch Covid-19

Ngoài các khoản chi được quy định tại pháp luật thuế chuyên ngành, trong kỳ tính thuế thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2022, doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản chi ủng hộ, tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật thông qua một số đơn vị nhận ủng hộ, tài trợ theo quy định bao gồm Ủy bản Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, cơ sở y tế, cơ sở giáo dục, cơ quan báo chí và các cơ quan khác được liệt kê tại Nghị định 15.

Ngoài ra, Nghị định 15 đã quy định bổ sung trường hợp doanh nghiệp thực hiện việc ủng hộ, tài trợ thông qua việc chuyển khoản ủng hộ, tài trợ này về công ty mẹ. Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị thành viên, phải đảm bảo đáp ứng các điều kiện sau để được giảm trừ các chi phí ủng hộ, tài trợ khi xác định chi phí được trừ:

  • Công ty mẹ phải có biên bản/văn bản xác nhận khoản chi ủng hộ, tài trợ có chữ ký, đóng dấu của người đại diện doanh nghiệp đơn vị thành viên và công ty mẹ;
  • Doanh nghiệp có hóa đơn, chứng từ hợp pháp đối với khoản ủng hộ, tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật theo quy định của pháp luật;
  • Công ty mẹ có văn bản xác nhận về khoản ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp đơn vị thành viên; và
  • Công ty mẹ thực hiện việc ủng hộ, tài trợ thông qua đơn vị nhận ủng hộ, tài trợ được liệt kê tại Nghị định 15.

Đây là một quy định mới tại Nghị định 15 so với quy định tương ứng tại Nghị định 44/2021/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19 và được bổ sung trên cơ sở phát sinh các khoản chi ủng hộ, tài trợ từ các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam.

Nghị định 15 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 02 năm 2022.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2022 – Phiên tòa trực tuyến tại Việt Nam theo quy định mới: Từng bước tiếp cận hệ thống Tòa án điện tử

Phát hành 04/2022 

Nguyễn Đăng Việt
Luật sư thành viên

Nguyễn Ngọc Ly
Trợ lý Luật sư

1. Tổng quan

Đối mặt với vô số khó khăn và trì hoãn giữa bối cảnh dịch COVID-19 diễn ra, các tòa án trên toàn cầu đã và đang tối ưu hệ thống điện tử của mình để triển khai các tòa án trực tuyến. Sự đổi mới này là giải pháp thích hợp để cân bằng các chỉ thị y tế công cộng với nhu cầu duy trì pháp quyền, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã và đang áp dụng hàng loạt giải pháp công nghệ để phát triển hệ thống làm việc trực tuyến, giúp các thủ tục tại tòa án được vận hành thông suốt.

Trong vòng 02 năm trở lại đây, được coi là một yếu tố cấu thành nên nền tảng Tòa án điện tử, thuật ngữ “phiên tòa trực tuyến” đã dần được tiếp cận và đề cập đến ở Việt Nam như một giải pháp khả thi để bổ trợ cho các phiên tòa trực tiếp, nhất là khi đại dịch tiếp tục gây gián đoạn hoạt động tố tụng. Tại nhiều quốc gia, nhờ có phiên tòa ảo mà các bên đã không cần đến các phòng xử án thông thường vốn quen thuộc trước đây.

Liên quan đến vấn đề này, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 33/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 (“Nghị quyết 33”) quy định về tổ chức phiên tòa trực tuyến như một phương thức song hành với các phiên tòa trực tiếp sẵn có.

Đáng lưu ý là Thông tư liên tịch do Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư pháp ban hành ngày 15/12/2021 (Thông tư liên tịch 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP, “Thông tư liên tịch 05”) đưa ra hướng dẫn và quy trình tổ chức phiên tòa trực tuyến có hiệu lực từ ngày 01/02/2022.

Phiên tòa trực tuyến là phiên tòa được tổ chức bằng các thiết bị nghe nhìn, cho phép người tham gia không cần trực tiếp đến phòng xử án. Dưới góc độ pháp lý, phiên tòa trực tuyến được tổ chức tại phòng xử án, có sử dụng các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường mạng, cho phép bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại địa điểm ngoài phòng xử án do Tòa án quyết định nhưng vẫn bảo đảm trực tiếp theo dõi đầy đủ hình ảnh, âm thanh và tham gia các trình tự, thủ tục tố tụng của phiên tòa bằng lời nói, hành vi tố tụng liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm.[1]

 2. Các trường hợp và thẩm quyền tổ chức phiên tòa trực tuyến

Theo Nghị quyết 33/2021/QH15 (Điều 1.1), Tòa án Nhân dân được tổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án đáp ứng đủ 02 điều kiện sau đây:

  • Các vụ án hình sự, dân sự, hành chính có tình tiết, tính chất đơn giản;
  • Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án rõ ràng.

Tuy nhiên, các phiên tòa trực tuyến sẽ không được áp dụng cho:

  • Vụ án hình sự, dân sự, hành chính liên quan đến bí mật Nhà nước;
  • Vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự;
  • Vụ án hình sự về một trong các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật Hình sự.

3. Hướng dẫn chung về việc tổ chức phiên tòa trực tuyến

Việc tổ chức phiên tòa trực tuyến được thực hiện theo nguyên tắc chung về tổ chức xét xử các vụ án được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hành chính 2015. Bên cạnh đó, các cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án Nhân dân tổ chức xét xử trực tuyến là Nghị quyết 33 và Thông tư liên tịch 05 với một số điểm đáng chú ý như sau:

3.1 Nghĩa vụ của các cơ quan thẩm quyền.

Trong giai đoạn chuẩn bị phiên tòa trực tuyến Tòa án điện tử và quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án và các cơ quan hữu quan (bao gồm Viện kiểm sát, cơ sở giam giữ và trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước) phải phối hợp có hiệu quả để đảm bảo phiên tòa trực tuyến được tổ chức trong tuân thủ các quy định hiện hành.[2]

Tòa án, với tư cách chủ trì phiên tòa trực tuyến, phải đảm bảo đã có thông báo hợp lý tới tất cả các bên tham gia phiên tòa trực tuyến, từ đó các bên này sẽ có sắp xếp tổ chức kỹ thuật cần thiết để kiểm tra và kết nối nền tảng điện tử.

3.2 Yêu cầu về kỹ thuật và quy trình

Các phiên tòa trực tuyến sẽ được tổ chức bằng cách thiết lập 02 loại điểm cầu.

Điểm cầu trung tâm hoặc phòng xử án trực tuyến có thể đặt tại trụ sở Tòa án hoặc địa điểm do Tòa án lựa chọn, tổ chức theo quy định tại Thông tư 01/2017/TT-TANDTC với các thành phần bắt buộc tham gia (Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án).

Phòng xử án ảo này phải được trang bị đầy đủ các thiết bị phục vụ phiên tòa trực tuyến như hệ thống chiếu sáng, đường truyền và thiết bị mạng, hệ thống âm thanh và thiết bị hiển thị hình ảnh, dữ liệu và nguồn điện, v.v.

Đối với hầu hết các phiên tòa dân sự, hành chính hoặc hình sự, các điểm cầu thành phần chỉ cần đáp ứng các điều kiện cơ bản về không gian, chất lượng hình ảnh, âm thanh để đảm bảo phiên xét xử được truyền trực tuyến. Đối với phiên tòa hình sự có điểm cầu thành phần đặt tại nơi giam giữ thì còn phải đáp ứng  các quy định của Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2018 của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao quy định phòng xử án.

Những người tham gia không phải là Hội đồng xét xử sẽ tham gia thông qua tối đa 03 điểm cầu thành phần được Tòa án chấp nhận.

Ngoài các thủ tục thông thường theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Tố tụng Hành chính, phiên tòa trực tuyến cũng đồng thời phải đáp ứng các yêu cầu khác, [3]ví dụ: kiểm tra giấy tờ tùy thân của người tham gia phiên tòa; phổ biến một số thông tin về phiên tòa trực tuyến khi khai mạc bởi chủ tọa phiên tòa.

3.3.   Yêu cầu chung đối với người tham gia

Để tham dự một phiên tòa trực tuyến, người tham gia phải tuân thủ các quy định đáng chú ý như sau:

  • Luôn để bật camera và âm thanh micro;
  • Không tạo ra tạp âm gây ảnh hưởng mất tập trung;
  • Trang phục phù hợp khi tham dự phiên tòa qua thiết bị ghi hình;
  • Không đi lại hoặc rời đi trong thời gian xét xử trực tuyến trừ khi được chủ tọa phiên tòa cho phép;
  • Đảm bảo bảo mật và an toàn của phiên tòa, không chụp ảnh, ghi âm, phát tán tài liệu trên các phương tiện truyền thông, v.v.
  • Xuất trình giấy tờ tùy thân theo yêu cầu của tòa án.

4. Kết

Nền Công nghiệp 4.0 ở Việt Nam đang ở giai đoạn đầu nhưng được ứng dụng kịp thời vào các phiên tòa trực tuyến, sẽ có khả năng mang lại nhiều lợi ích thực sự cho các bên. Phiên tòa trực tuyến còn tiết kiệm thời gian và chi phí, và dễ dàng tiếp cận. Nếu triển khai tốt, Việt Nam có thể nâng cao năng lực của hệ thống toà án và đảm bảo quy trình tố tụng được giải quyết kịp thời tránh bì trì hoãn và tồn đọng.

[1] Điều 1.2 Nghị quyết 33/2021/QH15

[2] Chương II Thông tư liên tịch 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP

[3] Điều 13 Thông tư liên tịch 05

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 03, 2022 – Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản

Phát hành 03/2022 

Nguyễn Thu Huyền
Luật sư thành viên

Nguyễn Hoàng Quân
Trợ lý Pháp lý

Trong những năm gần đây, ngành nghề kinh doanh bất động sản luôn nằm trong danh sách các ngành có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất tại Việt Nam. Theo thống kê của Bảng xếp hạng PROFIT500 do Vietnam Report thực hiện cho giai đoạn 2017 – 2021[1], nhóm 7 ngành đạt tốc độ tăng trưởng kép (“CAGR[2]”) cao nhất và có đóng góp lớn cho sự tăng trưởng chung là: Ngành Thép (34,5%); Ngành Bán lẻ (17,5%); Ngành Tài chính (17,3%); Ngành Nông nghiệp (16,0%); Ngành Thực phẩm – Đồ uống (11,9%); Ngành Hóa chất (11,7%) và Ngành Bất động sản – Xây dựng (10,8%). Không những tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao, ngành kinh doanh bất động sản còn xuất hiện nhiều loại hình mới như officetel, condotel, resort villa hay shophouse cần có hành lang pháp lý để điều chỉnh.

Trước sự phát triển nhanh chóng của thị trường, ngày 06 tháng 01 năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản năm 2014 (“Nghị định 02”) để đáp ứng các yêu cầu mới về quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Nghị định 02 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 03 năm 2022 và thay thế Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản (“Nghị định 76”).[3] Dưới đây là các điểm mới đáng chú ý của Nghị định 02 này:

1. Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải công khai thông tin

Nghị định 02 quy định trách nhiệm công khai thông tin là một trong những điều kiện bắt buộc để tổ chức cá nhân được kinh doanh bất động sản, theo đó doanh nghiệp bất động sản, Ban Quản lý dự án bất động sản và sàn giao dịch bất động sản phải công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp, trụ sở Ban Quản lý dự án, và sàn giao dịch. Các thông tin cần công khai bao gồm: (i) thông tin về doanh nghiệp; (ii) thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh,; (iii) thông tin về thế chấp nhà, công trình xây dựng, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh; (iv) thông tin về số lượng, loại sản phẩm bất động sản được kinh doanh, đã bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê mua, và còn lại đang tiếp tục kinh doanh.[4]

Quy định nêu trên là quy định mới so với Nghị định 76, cụ thể hóa các quy định tại Điều 6 của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 về việc công khai thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh.  Quy định này nhằm minh bạch hóa thông tin trong hoạt động kinh doanh bất động sản và nếu được triển khai một cách hiệu quả trong thực tế sẽ giúp cho người dân có một kênh thông tin để tham khảo khi có nhu cầu mua bất động sản.

2. Quy định về vốn pháp định và vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư:

Nghị định 76 quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng.[5] Quy định này được bãi bỏ theo Luật đầu tư năm 2020 và theo đó tiếp tục được bãi bỏ tại Nghị định 02.

Ngoài ra, Nghị định 02 bổ sung quy định về mức vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư dự án bất động sản căn cứ theo quy mô sử dụng đất thống nhất với các quy định về điều kiện đối với người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư của Nghị định 43/2014/NĐ-CP[6] (không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án sử dụng đất từ 20 ha trở lên) cũng như cách thức xác định mức vốn chủ sở hữu này. Việc xác định vốn chủ sở hữu quy định tại khoản này được căn cứ vào kết quả báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc kết quả báo cáo kiểm toán độc lập của doanh nghiệp đang hoạt động (được thực hiện trong năm hoặc năm trước liền kề); trường hợp là doanh nghiệp mới thành lập thì xác định vốn chủ sở hữu theo vốn điều lệ thực tế đã góp theo quy định của pháp luật.[7]Với các quy định này, Nghị định 02 đã làm rõ điều kiện về năng lực tài chính của nhà đầu tư dự án bất động sản thay vì không được đề cập tại Nghị định 76, đảm bảo sự đồng bộ giữa pháp luật kinh doanh bất động sản và pháp luật đất đai cũng như những quy định mới của Luật Đầu tư 2020.

3. Áp dụng mẫu hợp đồng chung khi kinh doanh bất động sản:

Một trong những điểm mới đáng chú ý của Nghị định 02 là việc áp dụng hợp đồng mẫu trong các giao dịch bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua, cho thuê lại bất động sản và chuyển nhượng dự án bất động sản, trong đó có cả mẫu hợp đồng mua bán/thuê mua căn hộ du lịch, căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú.

Việc Nghị định 02 ban hành mẫu Hợp đồng mua bán/thuê mua căn hộ du lịch, căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú để thống nhất áp dụng, trong đó quy định rất rõ ràng và chi tiết các quy định liên quan tới như định nghĩa đối với “Căn hộ du lịch/Căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú”, “Phần sở hữu chung”, “Phần sở hữu riêng”, “Kinh phí bảo trì”, “Bảo hành”, “Đặc điểm của căn hộ du lịch/căn hộ văn phòng kết hợp lưu trú được mua bán/thuê mua”, “Quyền và nghĩa vụ của các bên”… là một bước tiến quan trọng về tính pháp lý đối với các sản phẩm bất động sản này.

Ngoài ra, một điểm cần lưu ý là các mẫu hợp đồng được quy định trong Nghị định 02 mang tính bắt buộc, không còn mang tính chất tham khảo trong quá trình ký kết hợp đồng như quy định cũ tại Nghị định 76.[8]

Đối với các giao dịch chuyển nhượng bất động sản đã được ký kết trước ngày Nghị định 02 có hiệu lực, các bên không cần ký lại Hợp đồng theo quy định của Nghị định 02. Tuy nhiên, đối với các trường hợp các bên đang làm thủ tục ký kết hợp đồng mua bán, thuê mua nhà, công trình xây dựng nhưng đến ngày Nghị định 02 có hiệu lực thi hành, các bên chưa ký kết hợp đồng thì phải thực hiện ký kết hợp đồng theo quy định tại Nghị định 02.[9]

4. Điều kiện mới khi mua bán dự án nhà ở hình thành trong tương lai và nhà, công trình xây dựng có sẵn.

Nghị định 02 đã quy định chi tiết về điều kiện để chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai[10], bên cạnh quy định về điều kiện chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà có sẵn tại Nghị định 76. Việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà, công trình xây dựng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) có hợp đồng được lập theo quy định của Điều 6 Nghị định 02; (ii) thuộc diện chưa nộp hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận; (iii) hợp đồng không thuộc diện tranh chấp; và (iv) nhà, công trình thuộc hợp đồng không thuộc diện bị kê biên, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ, trừ trường hợp được bên nhận thế chấp đồng ý.

Nghị định 02 còn quy định chi tiết trình tự, thủ tục chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai và chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng có sẵn.

5. Quy định mới trong chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản.

Nghị định 02 quy định rõ về nguyên tắc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản. Theo đó, việc chuyển nhượng dự án bất động sản chỉ được thực hiện khi có đủ điều kiện và được áp dụng trong trường hợp dự án đang triển khai thực hiện theo tiến độ, nội dung dự án đã phê duyệt. Đây là điều kiện mới và yêu cầu cao hơn đối với dự án bất động sản dự kiến chuyển nhượng, so với quy định “Đối với trường hợp chuyển nhượng toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thì phải xây dựng xong các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt[11] của Luật Kinh doanh bất động sản, buộc nhà đầu tư cần nghiêm túc tuân thủ tiến độ, nội dung dự án đã phê duyệt.

Đối với các dự án bất động sản được chấp thuận nhà đầu tư và dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật Đầu Tư năm 2020, khi thực hiện chuyển nhượng, pháp luật về đầu tư sẽ được áp dụng.[12] Các dự án không thuộc các trường hợp nêu trên sẽ thực hiện chuyển nhượng theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản và Nghị định 02.

Nghị định 02 được ban hành gồm 16 điều cùng với các mẫu Hợp đồng, nhằm thay thế Nghị định 76, tạo lang pháp lý rõ ràng hơn cho thị trường bất động sản trong thời gian sắp tới.

[1] https://vietnamreport.net.vn/Top-500-Doanh-nghiep-loi-nhuan-tot-nhat-Viet-Nam-nam-2021-9998-1006.html

[2] Compound Annual Growth Rate: Tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm

[3] Điều 16.2 Nghị định số 02/2022/NĐ-CP

[4] Điều 4.1 (b) Nghị định số 02/2022/NĐ-CP

[5] Điều 3.1 Nghị định 76/2015/NĐ-CP

[6] Điều 14.2 (b) Nghị định 43/2014/NĐ-CP

[7] Điều 4.2 Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[8] Điều 7.2 (a) Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[9] Điều 14.1 và 14.2 Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[10] Điều 7 Nghị định 02/2022/NĐ-CP

[11] Điều 49.1 (b) Luật kinh doanh bất động sản năm 2014

[12] Điều 46 Luật Đầu tư năm 2020.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 11, 2021 – MIỄN VÀ GIẢM THUẾ ĐỂ HỖ TRỢ CÁC DOANH NGHIỆP ẢNH HƯỞNG BỞI COVID-19

Phát hành 11/2021 

Nguyễn Bích Vân
Thành viên

Nguyễn T. Minh Thư
Luật sư trợ lý

Nằm trong nhóm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19, Chính Phủ ban hành Nghị định 92/2021 NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2021 thực hiện Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nghị định 92 quy định chi tiết các nội dung có ảnh hưởng tới doanh nghiệp gồm về (i) giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, (ii) giảm thuế giá trị gia tăng, (iii) miễn tiền chậm nộp.

Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Các doanh nghiệp, tổ chức được thành lập theo quy định pháp luật Việt Nam, theo Luật Hợp tác xã mà có doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2021 không quá 200 tỷ đồng và doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2021 giảm so với doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2019 được áp dụng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Riêng với doanh nghiệp mới thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách trong kỳ tính thuế năm 2020 và năm 2021, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng miễn là đáp ứng điều kiện có doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2021 không quá 200 tỷ đồng.

Mức giảm thuế là 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2021. Số tiền thuế được giảm được tính trên toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp, bao gồm cả thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (trừ nhà ở xã hội); thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư; và các thu nhập khác được loại trừ khi áp dụng ưu đãi thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Không áp dụng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối các khoản giảm trừ doanh thu, doanh thu từ hoạt động tài chính và thu nhập khác. Số thuế được giảm theo Nghị định 92 không bao gồm số thuế mà doanh nghiệp đang được hưởng ưu đãi theo quy định hiện hành.

Ngoài ra, Nghị định 92 cũng hướng dẫn cách xác định doanh thu đối với doanh nghiệp có thời gian hoạt động chưa đủ 12 tháng và cách thức kê khai giảm thuế.

Giảm thuế giá trị gia tăng

Doanh nghiệp, tổ chức được giảm 30% thuế giá trị gia tăng hoặc 30% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng tùy thuộc vào phương pháp tính thuế. Thời gian giảm thuế giá trị gia tăng kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2021.

Tuy nhiên, việc giảm thuế giá trị gia tăng chỉ áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19: (i) Dịch vụ vận tải (vận tải đường sắt, vận tải đường thủy, vận tải hàng không, vận tải đường bộ khác); dịch vụ lưu trú; dịch vụ ăn uống; dịch vụ của các đại lý du lịch, kinh doanh tua du lịch và các dịch vụ hỗ trợ, liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du lịch; (ii) Sản phẩm và dịch vụ xuất bản; dịch vụ điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và xuất bản âm nhạc; tác phẩm nghệ thuật và dịch vụ sáng tác, nghệ thuật, giải trí; dịch vụ của thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác; dịch vụ thể thao, vui chơi và giải trí. Hàng hóa, dịch vụ trong nhóm (ii) không bao gồm phần mềm xuất bản và các hàng hóa, dịch vụ sản xuất, kinh doanh theo hình thức trực tuyến.

Ngoài lưu ý về cách thức ghi khi lập hóa đơn giá trị gia tăng, xử lý các hóa đơn đã lập mà chưa ghi chú về việc giảm thuế, doanh nghiệp, tổ chức cần thực hiện kê khai các hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng theo “Phụ lục giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15” tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này cùng với Tờ khai thuế giá trị gia tăng.

Miễn tiền chậm nộp

Doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ trong kỳ tính thuế năm 2020 được miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Trường hợp số tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp tăng lên do doanh nghiệp tự bổ sung hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng không phải nộp tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020, năm 2021 đối với số tiền phải nộp tăng thêm đó nếu đáp ứng điều kiện về lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế năm 2020. Tuy nhiên, không áp dụng với trường hợp doanh nghiệp đã nộp tiền chậm nộp trước thời điểm có hiệu lực của Nghị định này.

Để được miễn tiền chậm nộp, doanh nghiệp cần lập văn bản đề nghị miễn tiền chậm nộp làm căn cứ cho cơ quan thuế quản lý khoản thuế, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và cơ quan thuế quản lý trực tiếp xác định điều kiện lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế năm 2020 và xem xét miễn tiền chậm nộp. Thời hạn xem xét của cơ quan thuế là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị miễn tiền chậm nộp.

Cần lưu ý, trường hợp cơ quan thuế xác định sai quyền được miễn tiền chậm nộp, cơ quan thuế có thể thu hồi quyết định miễn tiền chậm nộp và doanh nghiệp phải tiến hành nộp theo quy định pháp luật.

Nghị định 92 có hiệu lực kể từ ngày 19 tháng 10 năm 2021.

Download pdf version