BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 06, 2020 – TÓM TẮT DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ THỬ NGHIỆM CÓ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CÔNG NGHỆ TÀI CHÍNH (FINTECH) TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

Đăng ngày 23/06/2020

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước ban hành Dự thảo Nghị định quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng để lấy ý kiến. Trong bối cảnh công nghệ tài chính phát triển nhanh chóng kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn, bản dự thảo có thể được coi là một trong những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng cho việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động Fintech tại Việt Nam.

1. Định nghĩa Cơ chế thử nghiệm công nghệ tài chính (Fintech)

Theo định nghĩa tại Dự thảo, Cơ chế thử nghiệm Fintech (sau đây gọi tắt là Cơ chế thử nghiệm) là một cơ chế pháp lý được thiết lập bởi Chính phủ trong đó cho phép các tổ chức tín dụng, công ty cung ứng giải pháp Fintech và tổ chức đổi mới sáng tạo khác được thực hiện thử nghiệm trực tiếp các sản phẩm, dịch vụ Fintech trong môi trường được kiểm soát và giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý có liên quan.

2. Đối tượng và các lĩnh vực được tham gia Cơ chế thử nghiệm

Ba nhóm đối tượng có liên quan tới hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng dự kiến được tham gia thử nghiệm bao gồm các tổ chức tín dụng, công ty Fintech/Công ty cung ứng giải pháp Fintech hợp tác với ngân hàng; Công ty Fintech/Công ty cung ứng giải pháp Fintech độc lập. Các lĩnh vực Fintech được tham gia Cơ chế thử nghiệm là thanh toán, tín dụng, cho vay ngang hàng (P2P Lending), hỗ trợ định danh khách hàng; giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API), các giải pháp ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo như Blockchain, các dịch vụ khác hỗ trợ hoạt động ngân hàng (chấm điểm tín dụng, tiết kiệm, huy động vốn…).

Giải pháp Fintech của các đối tượng xin tham gia thử nghiệm phải đáp ứng toàn bộ các tiêu chí:

  • Là giải pháp mà hoàn toàn chưa có hoặc một phần chưa có quy định pháp lý điều chỉnh;
  • Là giải pháp Fintech sáng tạo lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam hoặc giải pháp Fintech được ứng dụng cho dịch vụ mới, có tính sáng tạo cao góp phần đem mang lại lợi ích cho người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy mục tiêu mở rộng phổ cập tài chính;
  • Là giải pháp được thiết kế quản lý rủi ro tốt, không có hoặc ít có khả năng gây ra tác động xấu tới các tổ chức tài chính nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung; có phương án xử lý, khắc phục các rủi ro xảy ra trong quá trình thử nghiệm;
  • Là giải pháp đã được công ty cung ứng giải pháp hoặc tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp đánh giá phù hợp và chính xác chức năng, công dụng và tính hữu ích;
  • Là giải pháp có tính khả thi và tính thương mại cao, có kế hoạch cung ứng ra thị trường cụ thể sau khi hoàn thành thử nghiệm;
  • Là giải pháp không tiềm ẩn rủi ro gây bất ổn đến thị trường tài chính – ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

3. Phạm vi thử nghiệm

Thời gian thử nghiệm các giải pháp Fintech là 01-02 năm tùy từng giải pháp và lĩnh vực cụ thể, tính từ thời điểm được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận thử nghiệm. Tùy thuộc vào các giải pháp Fintech cụ thể, Ngân hàng Nhà nước sẽ thảo luận với tổ chức tham gia thử nghiệm để quyết định phạm vi cho hoạt động của các giải pháp bao gồm đồng thời 1 trong 3 yếu tố sau: Về địa lý, về hạn mức giao dịch và về số lượng khách hàng tham gia sử dụng dịch vụ.

4. Đăng kí tham gia Cơ chế thử nghiệm

Tổ chức tín dụng, công ty Fintech/công ty cung ứng giải pháp Fintech phải thực hiện việc đăng kí khi tham gia Cơ chế thử nghiệm, hồ sơ đăng kí bao gồm: (1) Đơn đăng kí tham gia cơ chế thử nghiệm Fintech; (2) Giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành; (3) Văn bản mô tả về Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành đối với Giải pháp Fintech đăng kí thử nghiệm; (4) Đề án mô tả Giải pháp Fintech.

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đầu mối tiếp nhận, thẩm định hồ sơ, tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận tham gia Cơ chế thử nghiệm.

5. Quy định về giám sát rủi ro, tổng kết đánh giá và xác nhận tốt nghiệp các tổ chức tham gia thử nghiệm

Kết thúc thời gian thử nghiệm, các tổ chức tham gia thử nghiệm phải xây dựng báo cáo tổng kết, bao gồm các thông tin: Sản phẩm đầu ra thử nghiệm, các chỉ số đánh giá thử nghiệm về thành công hay thất bại của giải pháp và kết quả thử nghiệm; báo cáo sự cố và giải quyết khiếu nại của khách hàng và bài học rút ra từ việc thử nghiệm. Ngân hàng Nhà nước căn cứ báo cáo tổng kết và quá trình giám sát trình Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý bao gồm dừng tham gia thử nghiệm; cấp giấy chứng nhận hoàn thành thử nghiệm hoặc gia hạn thử nghiệm. Việc được cấp giấy Chứng nhận hoàn thành thử nghiệm là căn cứ để các tổ chức triển khai chính thức ra thị trường. Đồng thời kết quả triển khai thử nghiệm dịch vụ cũng là căn cứ để các cơ quan nhà nước triển khai xây dựng hoàn thiện cơ sở pháp lý phù hợp với từng loại dịch vụ và công nghệ Fintech.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2020 – QUY ĐỊNH MỚI VỀ ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT

Đăng ngày 29/04/2020

Nguyễn Thị Thu Hà – Trợ lý Luật sư

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 Bộ Tư Pháp đã ban hành Thông tư 07/2019/TT-BTP hướng dẫn một số nội dung về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (“Thông Tư 07”), để hướng dẫn cụ thể một số quy định của Nghị định số 102/2017/NĐ-CP, đồng thời thay thế cho Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT ngày 23 tháng 6 năm 2016.

Thông Tư 07 bổ sung một trường hợp phải đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất (“QSDĐ”) và tài sản gắn liền với đất là đăng ký thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở, dự án đầu tư xây dựng công trình xây dựng không phải là nhà ở, dự án đầu tư xây dựng khác theo quy định của pháp luật. Thủ tục đăng ký thế chấp này sẽ giống như đối với đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là nhà ở, công trình xây dựng.

Ngoài ra, Thông Tư 07 đưa ra một số quy định mới về đăng ký thế chấp QSDĐ là tài sản chung tại Văn phòng đăng ký đất đai. Theo quy định tại Điều 12 Thông Tư 07, Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện đăng ký thế chấp Quyền Sử Dụng Đất trong một số trường hợp đặc biệt như sau:

  • thế chấp QSDĐ là tài sản chung của vợ chồng mà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chỉ ghi họ, tên một bên vợ hoặc chồng, thì thông tin về bên thế chấp trong hợp đồng thế chấp sẽ bao gồm cả vợ và chồng;
  • thế chấp QSDĐ là tài sản chung của hộ gia đình mà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên chủ hộ, thì thông tin về bên thế chấp trong hợp đồng thế chấp là tên của chủ hộ và tên của các thành viên khác có chung quyền sử dụng đất. Trường hợp một số thành viên của hộ gia đình, của nhóm người sử dụng đất có yêu cầu đăng ký thế chấp đối với phần thuộc QSDĐ của mình thì trước khi đăng ký thế chấp, người có yêu cầu phải thực hiện thủ tục phân chia QSDĐ, thủ tục tách thửa đất để được cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất; và
  • thế chấp QSDĐ mà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên doanh nghiệp tư nhân thì ho, tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc họ, tên chủ doanh nghiệp tư nhân và vợ, chồng của chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ được nêu tronghợp đồng thế chấp với tư cách là bên thế chấp.

Thông Tư 07 còn quy định cụ thể hai trường hợp chuyển tiếp đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, như nêu dưới đây:

Một là đã đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở có yêu cầu chuyển sang đăng ký thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai. Hai là đã đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở có yêu cầu chuyển sang đăng ký thế chấp nhà ở do nhà ở hình thành trong tương lai đã được hình thành (đã được nghiệm thu đưa vào sử dụng). Trong trường hợp sau, sẽ có hai trường hợp xảy ra (i) xóa đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản và sau đó tiến hành đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và nhà ở tại Văn phòng đăng ký đất đai; hoặc (ii) chuyển tiếp đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở sang đăng ký thế chấp nhà ở do nhà ở hình thành trong tương lai đã được hình thành.

Thông tư 07 có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 01 năm 2020.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 04, 2020 – QUY ĐỊNH MỚI VỀ DỊCH VỤ VÍ ĐIỆN TỬ

Đăng ngày 28/04/2020

Lê Anh Kiên – Trợ lý Pháp lý

Ví điện tử được coi là một công cụ quan trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp thương mại điện tử và công nghệ tài chính, đặc biệt trong thời đại 4.0 hiện nay. Đây là loại hình trung gian thanh toán được quy định lần đầu tại Nghị định 101/2012/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22/11/2012 và Thông tư số 39/2014/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 11/12/2014 (“Thông tư 39”), tuy nhiên các văn bản này chưa quy định đầy đủ và cụ thể để điều chỉnh mọi khía cạnh liên quan đến hoạt động cung ứng Ví điện tử. Do đó, ngày 22/11/2019, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 23/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39 (“Thông tư 23”) để hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động cung ứng Ví điện tử. Thông tư 23 sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 07/01/2020, trong đó bổ sung một số quy định đáng chú ý như sau:

1. Quy định cụ thể về hồ sơ và thông tin của chủ thể mở Ví điện tử

Thông tư 23 bổ sung quy định về hồ sơ và thông tin của chủ thể mở Ví điện tử đối với cá nhân và tổ chức, trong đó, đối với ví điện tử của cá nhân, hồ sơ phải có các thông tin của chủ thể và giấy tờ chứng minh nhân thân của cá nhân này. Đối với Ví điện tử của tổ chức, hồ sơ cũng yêu cầu thông tin của tổ chức, tài liệu pháp lý của tổ chức và người đại diện hợp pháp của tổ chức.

Trường hợp cá nhân đăng ký mở Ví điện tử có tài khoản thanh toán được mở thông qua người giám hộ, người đại diện theo pháp luật thì ngoài các tài liệu của chủ thể mở Ví điện tử, cần có thêm tài liệu pháp lý của người giám hộ, người đại diện theo pháp luật và tài liệu chứng minh tư cách giám hộ, đại diện hợp pháp của người/tổ chức đó đối với chủ Ví điện tử.

2. Khách hàng phải hoàn thành liên kết Ví điện tử với tài khoản ngân hàng trước khi sử dụng Ví điện tử

Theo quy định tại Thông tư 23, tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử phải yêu cầu Khách hàng hoàn thành việc liên kết Ví điện tử với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc thẻ ghi nợ (có gắn với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam) của Khách hàng mở tại ngân hàng liên kết trước khi Khách hàng sử dụng Ví điện tử. Khách hàng không bị giới hạn số lượng tài khoản ngân hàng được liên kết với Ví điện tử của mình.

3. Phương thức nạp tiền hạn mức nạp tiền vào Ví điện tử

Việc nạp tiền vào Ví điện tử phải thực hiện thông qua tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của Khách hàng tại ngân hàng hoặc nhận tiền từ Ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử mở.  Khách hàng có thể sử dụng Ví điện tử để thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp; chuyển tiền cho Ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử mở và rút tiền ra khỏi Ví điện tử về tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của Khách hàng.

Tổng hạn mức giao dịch qua các Ví điện tử cá nhân của 01 khách hàng tại 01 tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử tối đa là 100 (một trăm) triệu đồng Việt Nam trong một tháng. Hạn mức này không áp dụng đối với Ví điện tử cá nhân của người có ký hợp đồng/thỏa thuận làm đơn vị chấp nhận thanh toán với tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử và Ví điện tử của tổ chức.

4. Tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải đảm bảo khả năng thanh toán

Để đảm bảo cho quyền lợi của chủ Ví điện tử và các tổ chức, cá nhân có liên quan, Thông tư 23 quy định Tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán để đảm bảo cho việc cung ứng dịch vụ này và có nghĩa vụ duy trì tổng số dư trên tất cả các tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ Ví điện tử mở tại các ngân hàng hợp tác không thấp hơn so với tổng số dư của tất cả các Ví điện tử của các khách hàng tại cùng một thời điểm.

Download pdf version

VIETNAM: COVID-19 có phải là sự kiện bất khả kháng không? Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về bất khả kháng, về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm các bên hợp đồng khi xảy ra sự kiện bất khả kháng đó?

Ngày 13 tháng 4 năm 2020

Bất khả kháng là một vấn đề tương đối phức tạp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Toà án và trọng tài đã giải quyết nhiều vụ tranh chấp liên quan đến sự kiện bất khả kháng, và không phải cứ xảy ra các sự kiện như được quy định, định nghĩa tại điều khoản về bất khả kháng trong hợp đồng giao kết giữa các bên sẽ đương nhiên được tòa án, trọng tài chấp nhận là sự kiện bất khả kháng, và bên chịu sự tác động của sự án kiện đó sẽ đương nhiên được miễn trừ nghĩa vụ, trách nhiệm của họ quy định trong hợp đồng.

Gần đây có nhiều ý kiến, kể cả ý kiến chuyên môn, về bệnh dịch coronavirus/COVID-19 được đưa ra, thảo luận trên các phương tiện báo chí truyền thông và diễn đàn mạng xã hội, cho rằng bệnh dịch coronavirus/COVID-19 là sự kiện bất khả kháng, và bên chịu sự tác động của sự kiện đó được miễn thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm của bên đó quy định tại hợp đồng đã giao kết với đối tác, như hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh, hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, hợp đồng thuê khoán – bao tiêu sản phẩm, hợp đồng tín dụng/vay vốn và nhiều loại hợp đồng khác. Với những thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin truyền thông rộng rãi, nhiều bên đang xem xét thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng với đối tác, với niềm tin rằng họ sẽ được miễn thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng đã giao kết. Chúng tôi khuyên bạn hãy thận trọng và nên tham vấn ý kiến của những luật sư có trình độ cao và dày dạn kinh nghiệm trong vấn đề này trước khi thực hiện.

Nhóm luật sư cấp cao của CÔNG TY LUẬT TNHH BIZCONSULT vào chiều thứ Sáu tuần trước (ngày 10/4/2020) đã thảo luận sâu và toàn diện về các nghiên cứu và ý kiến đánh giá của mình về sự kiện bất khả kháng, về sự bùng phát của bệnh dịch coronavirus/COVID-19 và các biện pháp của Chính phủ đang áp dụng ngăn chặn sự lây lan của bệnh dịch, khi nào và trong tình huống nào có thể được xem là sự kiện bất khả kháng, và khi đó quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên trong hợp đồng sẽ được xác định như thế nào theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nếu bạn đang gặp phải những vấn đề nêu trên, hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn đầy đủ về vụ việc cụ thể của bạn:

Luật sư Nguyễn Anh Tuấn ([email protected])

Luật sư Nguyễn Trọng Nghĩa ([email protected])

CÔNG TY LUẬT TNHH BIZCONSULT (www.bizconsult.vn).

 

 

Vietnam: New regulations on automobile transport business

Ngày 06 tháng 4 năm 2020

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian- Mena Counsel”

     

After a long time in the drafting stage, the Government issued Decree No. 10/2020/ND-CP (Decree 10) on January 17, 2020, regulating automobile transport business and conditions for conducting automobile transport business, replacing the Decree No. 86/2014/ND-CP dated September 10, 2014 (“Decree 86”). Decree 10 shall officially take effect from April 1, 2020 and put an end to the pilot application of ride-hailing software for passenger transport business with e-contract which has been applied for more than four years. Some notable new features of Decree 10 are as follows:

Discrimination between automobile transport business providers and providers of application software supporting the transport connection

The most important new point of Decree 10 is the definition that “automobile transport business” means conducting one or more main transport activity (to directly coordinate the vehicles, drivers or to decide the transport fee) to transport passengers or goods on the road for profit. This definition helps discriminating automobile transport business providers from providers of application software supporting the transport connection by the factor of directly coordinating the vehicles, drivers or deciding the transport fee or not.

Furthermore, the Decree also defines “Coordinating vehicles, drivers refers to the process where an organisation or individual assigns a passenger or freight transport task to a driver via the application software supporting the transport connection, a transport order or a transport contract”. This shall help to determine whether technology companies providing ride-hailing transport services be considered as transport business providers or not. If yes, such companies shall be required to obtain Automobile Transport Business Licence and are subject to legal regulations binding automobile transport business companies, including the requirement to sign labour contracts, pay kinds of insurances, periodical health check and other benefits for their employees, including drivers and supporters on automobile.

Relaxing taxis from requirement of light boxes fixed on the car roofs

According to previous regulations, taxies were required to have light boxes with the word “TAXI” fixed on the roof. Now, Decree 10 allows passenger transport by taxi businesses the option of either fixing light boxes with the word “TAXI” on car roofs with a minimum size of 12×30 cm or posting (affixed) the phrase “XE TAXI” (“TAXI CAR”) made of reflective material on the front and rear windshields with the minimum size of the phrase “XE TAXI” (“TAXI CAR”) being 6 x 20 cm.

Rented automobiles, tourist automobiles must have signages and all required information affixed on the vehicle’s bodies

To prevent the problem of illegal transport vehicles, illegal temporary station, Decree 10 requires the rented automobiles to have the signage of “XE HỢP ĐỒNG (“RENTED AUTOMOBILE”), the tourist automobiles to have the signage of “XE DU LỊCH” (“TOURIST AUTOMOBILE”) affixed beneath the front windscreen on the right-hand side of the vehicle.

At the same time, rented automobiles and tourist automobiles must be posted (affixed) with the words “XE HỢP ĐỒNG” (“RENTED AUTOMOBILE”), “XE DU LỊCH” (“TOURIST AUTOMOBILE”) made of reflective materials on the front and back windshields of the vehicle.

Mandatory installation of cameras for passenger transport business automobiles of nine seats (including drivers) or more, trucks and tractors

Decree 10 requires passenger transport business automobiles of nine seats (including drivers) or more, trucks and tractors to be equipped with cameras to ensure the recording and archive of images inside the vehicles (including driver and vehicle doors) during the course of traffic before July 1, 2021. Duration of retention of these images is at least 24 hours or 72 hours depending on the operating distance of the vehicle. The image data must be provided to the competent authority upon request.

Requirements for taxis equipped with the ride-hailing software

Taxis using ride-hailing software capable of booking, cancelling and charging rides must be equipped with a device directly connecting with passengers for booking and cancelling rides; the ride is charged based on the distance showed on the digital map and the ride charging software must comply with regulations of laws on electronic transactions.

In particular, when finishing a ride, companies using ride-hailing software must send e-invoices to passenger via the software and send the invoice’s information to its supervisory tax authority pursuant to regulations promulgated by the Ministry of Finance.

Beside above notable points, Decree 10 also provides for several other new regulations to meet with the needs for management of technology companies providing ride-hailing transport services which are expected to create a fair competitive environment for traditional taxi and technology taxi in Vietnam.

https://www.inhousecommunity.com/article/vietnam-new-regulations-automobile-transport-business/ 

Ha Hai
M: (84) 96 371 8558
E: [email protected]

Phan Minh
M: (84) 90 462 1350
E: [email protected]

Công ty Luật bizconsult hân hạnh được đóng góp bài viết đăng trên ấn phẩm Asian-mena Counsel In-house Handbook 2020

Công ty Luật Bizconsult hân hạnh được đóng góp bài viết “Vietnam market update” đăng trên ấn phẩm Asian-mena Counsel In-house Handbook 2020 thực hiện bởi Luật sư Nguyễn Anh Tuấn – Chủ tịch HĐTV và các Luật sư Thành viên Nguyễn Thu Huyền, Hà Thị Hải và Trần Công Quốc. Bài viết tiếp cận và đánh giá quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam trong những lĩnh vực luật quan trọng và cốt lõi nhất mà các nhà đầu tư nước ngoài cần phải lưu ý khi tham gia vào thị trường Việt Nam như luật đầu tư, luật lao động, luật cạnh tranh và các quy định pháp luật liên quan đến giao dịch ngoại hối. Các tác giả hi vọng bài viết sẽ đem đến một cái nhìn toàn cảnh về môi trường pháp lý đầu tư, kinh doanh tại thị trường Việt Nam, một thị trường hứa hẹn tiềm năng phát triển mạnh mẽ nhưng cũng ẩn chứa nhiều thách thức, rủi ro.

Download PDF

https://www.inhousecommunity.com/about-us/publications/asian-mena-counsel-in-house-handbook/

 

VIETNAM: SWEEPING REFORM TO SECURITIES MARKET

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian- Mena Counsel”

By Trang Nguyen  – Associate | Attorney at Law

In November 2019, the National Assembly passed the new Law on Securities No. 54/2019/QH14 (“New Law”), effective from 01 January 2021. The New Law will completely replace the current Law on Securities No. 70/2006/QH11 as amended by the Law No. 62/2010/QH12 (“Current Law”). The New Law is said to be a radical improvement to regulations on securities market in Vietnam, and is expected to overcome those shortcomings observed for the past 10 years.

One of the remarkable points of the New Law is the imposition of stricter qualifications to become a public company. In particular, in order to become a public company, the required minimum paid-up charter capital of a company will be VND30 billion, in which at least 10% voting shares must be held by at least 100 shareholders other than major shareholders. The Current Law requires the minimum paid-up charter capital of a public company to be VND10billion and held by 100 shareholders only. The current public company which fails to reach such conditions after the effective date of the New Law shall be reverted to be non-public.  Alternatively, a non-public company may also become a public company after its successful initial public offering (“IPO”).

With respect to public offering, the New Law set out separately conditions for IPO and follow-on public offer, rather than the same conditions for both under the Current Law. For IPO, the conditions on charter capital, profit and accumulated loss before IPO and minimum voting shares to be offered in an IPO are more stringent than those provided in the Current Law. In particular,

  • The company must have paid-up charter capital of at least VND30billion (VND10billion is required under Current Law);
  • There must be profit in two preceding years (one year is required under Current Law), and no accumulated losses till the year of IPO.
  • At least 15% of the company’s voting shares must be sold (or at least 10% with the company having charter capital of VND 1,000 billion or more) to at least 100 investors other than major shareholders; and
  • Major shareholders must commit to hold at least 20% of the company’s charter capital within at least one year from the completion date of the IPO.

The subscription price shall be deposited on an escrow account during IPO process and be released only upon the completion of IPO. Furthermore, the company’s shares are also demanded to be listed on the Stock Exchange after the IPO. For follow-on public offer, it is required below conditions:

  • The company must have paid-up charter capital of at least VND30billion;
  • There must be profit in preceding year, and no accumulated losses till the year of follow-on public offer;
  • The total par value of offered shares shall not exceed the total par value of outstanding shares, excepting the case that the unsold shares are guaranteed to be subscribed by an underwriter.

If a public offering is to raise capital for project, at least 70% of the total offered shares must be issued. The company must prepare a plan to make up the short fall of the capital intended to be raised from such public offering for the project’s implementation.

Regarding private placement, only strategic investors and professional securities investors are allowed to participate in private placement of a public company under the New Law. The lock-up period will be three years for strategic investors, or one year in case of professional securities investors, except for transfers among professional investors or so ruled by the court/arbitration or in case of inheritance. As compared with the Current Law, the scope of professional investors under the New Law covers further, among others, the company with charter capital over VNDN100 billion, the listed company, individual having securities practice certificate, individual having portfolio of listed shares valued at VND2billion, or individual having yearly taxable income of VND1billion or more.

The New Law also introduce certain new regulations on listing and registration for trading, securities depository, registration of securities, securities settlement and clearance, information disclosure, protection of client’s assets, securities investment funds, and sanctions.

https://www.inhousecommunity.com/article/vietnam-sweeping-reform-securities-market/

Download PDF

New Labour Code taking effect on January 1, 2021

Lưu ý: “bài viết này chỉ phát hành tiếng Anh cho tạp chí nước ngoài Asian- Mena Counsel”

By Nguyen Thu Huyen – Partner, Attorney at law

The participation in the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) and the EU-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) poses numerous requirements on the reform of laws, including labour laws.

Specifically, the members of the CPTPP and EVFTA are requested to adopt and maintain the rights as set out in the 1998 International Labour Organisation (ILO) Declaration, however, Vietnam is yet to ratify the remaining two core conventions of the ILO, which are Convention No. 87 regarding freedom of association and protection of the right to organise, and Convention No. 105 regarding abolition of forced labour. On that basis, Vietnam’s National Assembly ratified the new Labour Code on November 20, 2019 to replace the Labour Code 2012 and pave the way for the full implementation of the 1998 ILO Declaration. The new Labour Code will officially take effect from January 1, 2021 with the following notable provisions.

Employee representative organizations

The new Labour Code provides regulations on the establishment of employee’s organisations which are not under the system of Vietnam trade unions. Together with trade unions, these organisations are recognised as representing labour collectives at the grassroots level and have the equal rights and obligations as trade unions. In another way, the new Labour Code now recognises the right of employees to set up their own representative organisations to promote and improve the representative efficiency and protection of the rights and interests of the employees in labour relations, to comply with the core Conventions of the ILO as the new provision shows Vietnam’s effort tend to ILO’s Convention No. 87 which is not ratified by Vietnam’s National Assembly and to facilitate the process of international integration.

Nevertheless, this new regulation may place trade unions at a disadvantage due to a decrease in the number of members, especially in the non-state sector, and the role of trade unions may be limited.

Retirement age

The retirement age was a controversial topic in the process of preparing the draft of the new Labour Code 2019 for the National Assembly to ratify. People in favour of retaining the current retirement age argued that the increase of the retirement age might lead to growth in unemployment. Eventually, the retirement age has been amended to increase gradually.

In particular, age of retirement of employees working in normal working conditions is increased from 60 to 62 for males in 2028 and from 55 to 60 for females in 2035. Starting from 2021, the retirement age of employees working in normal working conditions is at 60 years and three months of age for males and 55 years and four months of age for females, then the retirement age shall increase by three months per year for males and by four months per year for females.

This roadmap for increasing the retirement age is considered reasonable as the current retirement age is still low compared to many countries in the world such as Singapore, Japan, Germany, etc. Moreover, the current retirement age was set more than 60 years ago when the average life expectancy of Vietnamese was 45 while it has now grown to 76.6 years.

Overtime cap

One of the remarkable amendments in the new Labour Code is the adjustment in the overtime cap. It has risen to 40 hours per month as compared to 30 hours per month as stated in the Labour Code 2012.

This amendment is for the purpose of meeting business needs and increasing the competitiveness of Vietnamese employees in the context of Vietnam joining CPTPP and EVFTA. In addition, the Labour Code newly stipulates cases for employees to work overtime for no more than 300 hours per year to ensure long-term benefits for employees.

Other noteworthy regulations

Other than the above-mentioned provisions, some noteworthy regulations of the new Labour Code are as follows: (i) an additional one full paid leave day adjacent to National Day raises the number of public holidays to 11; (ii) employees are allowed to unilaterally terminate labour contracts without reasons by notifying in advance within the timeline specified by law; (iii) employers are allowed to unilaterally terminate labour contracts of employees who are absent from work without permission for a total of five consecutive working days or more without requiring the employers to dismiss the employees for termination of labour contracts; (iv) and instead of conducting dialogue at workplaces every three months, the new Labour Code adjusts this regulation to once a year.

https://www.inhousecommunity.com/article/vietnam-new-labour-code-taking-effect-january-1-2021/

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 12, 2019 – QUY ĐỊNH MỚI VỀ HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ KHI BÁN HÀNG HÓA, CUNG CẤP DỊCH VỤ

Hà Tuấn Việt
Trợ lý pháp lý

Ngày 14/11/2019 vừa qua, Thông tư số 68/2019/TT-BTC hướng dẫn thực hiện một số điều Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ (“Thông tư 68”) đã chính thức có hiệu lực thi hành. Thông tư 68 đã hướng dẫn và làm rõ các quy định mang tính trọng yếu của Nghị định 119/2018/NĐ-CP, trong đó có một số nội dung đáng chú ý như sau:

1. Quy định về thời điểm phải đăng ký áp dụng hóa đơn điện tử

Căn cứ theo Khoản 3 Điều 26 Thông tư 68 thì kể từ ngày 01/11/2020, các doanh nghiệp tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh phải thực hiện đăng ký áp dụng hóa đơn điện tử theo hướng dẫn tại Thông tư 68. Như vậy, từ ngày 01/11/2020 các doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng ký áp dụng hóa đơn điện tử thay cho hóa đơn giấy (hóa đơn tự in, đặt in hoặc đặt mua của cơ quan thuế).

2. Nội dung và thời điểm lập hóa đơn điện tử

Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Thông tư 68 thì nội dung của hóa đơn điện tử đã được sửa đổi về ký hiệu mẫu số hóa đơn và ký hiệu hóa đơn, đồng thời quy định rõ ràng về các trường hợp và lĩnh vực cụ thể mà trong đó hóa đơn điện tử không nhất thiết phải có chữ ký số, chữ ký điện tử của người bán và người mua.
Ngoài ra, Thông tư 68 cũng đã hướng dẫn và xác định cụ thể về thời điểm lập hóa đơn điện tử đối với các hoạt động và lĩnh vực khác nhau như bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, hoạt động cung cấp điện, nước, dịch vụ viễn thông, dịch vụ truyền hình, dịch vụ công nghệ thông tin, xây dựng, lắp đặt, kinh doanh bất động sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán… phù hợp với quy định tại Điều 7, Nghị định 119/2018/NĐ-CP.

3. Điều kiện của tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử

Để trở thành tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử, Điều 23 Thông tư 68 quy định các tổ chức phải đáp ứng các điều kiện cụ thể về chủ thể, tài chính, nhân sự và kỹ thuật theo đúng quy định, đây là nội dung mà trước đó Nghị định 119/2018/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể, bao gồm:

a) Về chủ thể: Có kinh nghiệm trong việc xây dựng giải pháp công nghệ thông tin và giải pháp trao đổi dữ liệu điện tử giữa các tổ chức, cụ thể:
– Có tối thiểu 05 năm hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
– Đã triển khai hệ thống, ứng dụng công nghệ thông tin cho tối thiểu 10 tổ chức.
– Đã triển khai hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử giữa các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc giữa các tổ chức với nhau.

b) Về tài chính: Có cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam với giá trị trên 5 tỷ đồng để giải quyết các rủi ro và bồi thường thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình cung cấp dịch vụ.

c) Về nhân sự:
– Có tối thiểu 20 nhân viên kỹ thuật trình độ đại học chuyên ngành về công nghệ thông tin, trong đó có nhân viên có kinh nghiệm thực tiễn về quản trị mạng, quản trị cơ sở dữ liệu.
– Có nhân viên kỹ thuật thường xuyên theo dõi, kiểm tra 24h trong ngày và 7 ngày trong tuần để duy trì hoạt động ổn định của hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử và hỗ trợ người sử dụng dịch vụ hóa đơn điện tử.

d) Về kỹ thuật:
– Có hệ thống thiết bị, kỹ thuật, quy trình sao lưu dữ liệu tại trung tâm dữ liệu chính theo quy định tại mục d, khoản 1 Điều 32 của Nghị định số 119/2018/NĐ-CP.
– Có hệ thống thiết bị, kỹ thuật dự phòng đặt tại trung tâm dự phòng cách xa trung tâm dữ liệu chính tối thiểu 20km sẵn sàng hoạt động khi hệ thống chính gặp sự cố.
– Kết nối trao đổi dữ liệu hóa đơn điện tử với cơ quan thuế phải đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật theo quy định tại Điều 23 Thông tư 68.

4. Quy định về xử lý chuyển tiếp

Từ ngày 01/11/2018 đến ngày 31/10/2020, các đơn vị vẫn có thể áp dụng hóa đơn theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-CP, Nghị định số 04/2014/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành trong trường hợp cơ quan thuế chưa có thông báo chuyển sang áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định 119/2018/NĐ-CP.

Kể từ thời điểm sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định tại Thông tư 68, trong trường hợp phát hiện hóa đơn đã lập có sai sót thì người bán phải lập văn bản thỏa thuận ghi rõ sai sót, tiếp đó thực hiện thông báo với cơ quan thuế theo Mẫu số 04 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP và lập hóa đơn điện tử mới thay thế cho hóa đơn đã lập có sai sót.

Download pdf version

BẢN TIN PHÁP LÝ – THÁNG 12, 2019 – QUY ĐỊNH MỚI VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

Phạm Quốc Kiên
Trợ lý pháp lý

Ngày 19/11/2019, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (“Nghị Định 91”). Nghị định ngày sẽ có hiệu lực kể từ ngày 05/01/2020 và thay thế cho Nghị Định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 11 năm 2014 (“Nghị Định 102”). Ngoài việc hướng dẫn chi tiết hơn so với Nghị Định 102, Nghị Định 91 cũng đã bổ sung thêm một số nội dung đáng chú ý như sau:

1. Bổ sung khái niệm và chế tài xử phạt đối với hành vi “hủy hoại đất”:

Khái niệm “hủy hoại đất” đã được đề cập tới tại Luật đất đai 2013, tuy nhiên lại không hề được nhắc tới tại Nghị Định 102 và đã khiến cho công tác xử lý vi phạm đối với hành vi hủy hoại đất gặp nhiều khó khăn. Nhận thấy được hạn chế này, Nghị Định 91 đã quy định rõ ràng khái niệm “hủy hoại đất” và các chế tài áp dụng đối với hành vi này.

Cụ thể, Khoản 1 Điều 15 Nghị Định 91 quy định đối với hành vi làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất thì tùy theo diện tích đất bị hủy hoại, mức xử phạt sẽ dao động từ 2.000.000 đến 150.000.000 đồng. Mức phạt tiền này được áp dụng cho cá nhân vi phạm và sẽ tăng lên gấp 02 (hai) lần trong trường hợp bên vi phạm là tổ chức. Ngoài ra, tổ chức/cá nhân vi phạm còn bị buộc khôi phục tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và sẽ bị Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp người vi phạm không chấp hành.

2. Bổ sung các biện pháp khắc phục hậu quả:

Tại Nghị Định 102, các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định rải rác tại các điều khoản và chủ yếu bao gồm 03 (ba) biện pháp: buộc khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được; và buộc trả lại diện tích đất đã nhận. Tuy nhiên, tới Nghị Định 91, các biện pháp khắc phục hậu quả đã được bổ sung rất chi tiết, cụ thể là có 17 (mười bảy) biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Khoản 3 Điều 5 Nghị định này (ví dụ: buộc thực hiện thủ tục hành chính về đất đai, buộc hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai, buộc hoàn thành việc đầu tư xây dựng theo đúng quy định). Đáng chú ý, Điều 7 Nghị Định 91 cũng đã quy định cụ thể các phương pháp xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm.

3. Bổ sung nội dung về thời hiệu xử phạt:

Hiện nay, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được áp dụng theo các quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Nghị Định 91 đã quy định cụ thể thời hiệu xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là 02 năm, đồng thời đưa ra cách xác định thời điểm kết thúc và thời điểm chấm dứt đối với từng hành vi riêng biệt.

4. Bổ sung hành vi không thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của tổ chức thực hiện dự án kinh doanh bất động sản (“Chủ Đầu Tư”)

Trước đây, hành vi vi phạm này và chế tài được quy định tại Nghị Định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 (“Nghị Định 139”). Quy định này tại đã bị thay thế bởi Điều 31 Nghị Định 91, theo đó tùy thuộc vào thời gian vi phạm (từ 50 ngày đến trên 12 tháng) và mức độ vi phạm (từ dưới 30 đến trên 100 căn hộ, công trình xây dựng, thửa đất), mức phạt tiền đối với Chủ Đầu Tư không nộp hồ sơ thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc không cung cấp, cung cấp không đầy đủ giấy tờ cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất tự nộp hồ sơ có thể lên tới 1.000.000.000 đồng/1 dự án.

Download pdf version